Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bổn A Di Đà):

Lúc bấy giờ Đức Phật nói với Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng: Ở thế giới ta bà nầy, có sáu mươi bảy Đức Bồ Tát tu hành đắc đạo không còn thối chuyển sanh qua cõi Cực Lạc kia. Mỗi vị Bồ Tát đã từng cúng dường vô số Chư Phật, mỗi vị gần bằng Di Lặc đó vậy. Còn Chư Bồ Tát tiểu hạnh và những người tu hành ít công đức thì chẳng biết bao nhiêu mà tính đếm, đều sẽ được vãng sanh. Chẳng những ở cõi kia mà thôi, ở các cõi Phật trong mười phương cũng đều như vậy.

Kinh A Di Đà (Kinh Tiểu Bổn A Di Đà):

Nếu có những thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe lời giảng về Đức Phật A Di Đà mà trì niệm danh hiệu của Ngài hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày mà tâm không xao lãng, một lòng chuyên cần mà niệm, xưng tán danh hiệu Ngài, thì đối với những người ấy, các tội đều tiêu diệt, tức được nhiều căn lành, phúc đức nhơn duyên và đến lúc lâm chung thì được Đức Phật A Di Đà và chư Thánh chúng hiện ra trước mặt mình. Những người ấy lúc lâm chung, tâm không điên đảo, tức thời liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có dạy rằng: Các người thảy đều nên tin theo lời Ta và tin theo thuyết pháp của Phật…

Những chúng sanh nghe Ta thuyết pháp đây, nên phát tâm cầu nguyện vãng sanh để được sanh về cõi kia.

Thập Lục Quán Kinh (Kinh Quán Vô Lượng Thọ):

Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhơn chỉ nghe đến danh hiệu Phật A Di Đà và danh hiệu hai vị Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí cũng trừ được những tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống chi là nhớ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Nếu ai niệm Phật, thì nên biết người ấy là một thứ hoa phấn đà lỵ trong cõi người. Được Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát làm bạn tốt với người ấy.

Cũng như Kinh Quán Vô Lượng Thọ, nói về bậc hạ phẩm hạ sanh: “những ai phạm đủ các tội ngũ nghịch, mười ác mà lúc lâm chung nghe lời bạn lành, có niệm Phật nhưng không ra tiếng được mười lần. Nhờ niệm Phật, trừ hết những tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Trong khi mạng chung, thấy hoe sen vàng giống như vừng mặt trời hiện đến trước mặt mình…

Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự Phẩm (trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa):

Nghe kinh điển nầy, theo như thuyết mà tu hành, đến lúc mạng chung, liền tới cõi thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Bấy giờ hoá sanh nơi cõi ấy, ngồi trên hoa sen, được gần gũi với chư vị Bồ Tát và Đức Phật A Di Đà. Người ấy không còn não loạn, tham lam, sân hận, si mê, chẳng còn bị ô nhiễm bởi lòng tự cao, ganh ghét. Người đắc năm pháp thần thông và vô sanh pháp nhẫn.

Đại Trí Độ Luận:

“Phật là Vô Thượng Pháp Vương, chư Đại Bồ Tát làm Pháp Vương thần của Ngài. Bậc mà quần thần tôn trọng đó, duy có Đức Pháp Vương mà thôi”. Có những vị Bồ Tát tự xét rằng: “Thuở xưa, vì mình chê bai pháp Bát Nhã, cho nên bị sa đoạ vào nẽo ác chịu vô lượng thống khổ. Lại phải trải qua vô lượng kiếp rồi, tuy tu các hạnh lành, cũng chẳng đặng ra khỏi biển khổ. Sau nhờ gặp chư Thiện tri thức dạy cho niệm danh hiệu Phật A Di Đà, liền được diệt trừ tội chướng, vãng sanh Tịnh Độ. Nay nên tự lễ tạ Đức Phật A Di Đà. Tại sao vậy? Là vì tất cả cha mẹ, bà con, bạn lành, đồng loại, thiên thần, Vua Chúa, không ai độ được mình ra khỏi biển khổ. Chỉ có nguyện lực của Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ cho mình mà thôi. Nhờ vậy, mình được ra khỏi biển khổ…”.

Có bài kệ nói:

                                     Nếu ai nguyện làm Phật

                                     Tâm niệm A Di Đà

                                     Phật liền hiện thân đến

                                     Nên nay tôi quy mạng…

           Cũng trong Đại Trí Độ Luận có dạy rằng: Vào thời Đức Phật, có một người già xin cho mình được xuất gia, Ngài Xá Lợi Phật không cho. Đức Phật nhìn thấy người ấy kiếp trước đi hái củi bị cọp rượt, bèn trèo lên cây mà niệm Nam Mô A Di Đà Phật chẳng ra tiếng. Nhờ có điều lành nhỏ ấy, người được gặp Phật và đắc quả A La Hán.

          Chỉ xưng danh hiệu Phật một lần mà còn được giải thoát, huống chi trọn đời niệm Phật?

          Liên Tông Bảo Giám:

          Trong hằng hà sa số Như Lai, Đức A Di Đà là đệ nhứt; trong thập phương vi trần số cõi Phật, cảnh Cực Lạc là nơi về. Tin sâu Cực Lạc thiệt là cửa mầu giải thoát; tưởng thấu A Di Đà, thiệt là cha lành của chúng sanh. Bởi vậy cho nên: một ý nghĩ khởi lên, mà vạn linh đều hay; một lòng tin sanh ra, mà chư Phật đều hiện. Mới vừa xưng Bảo hiệu (danh hiệu Phật A Di Đà) đã gieo giống vào Liên Thai (Liên Hoa hoá sanh); một khi phát lòng Bồ Đề, liền được nêu tên ở Kim Địa (cõi nước Cực Lạc). Người chỉ lo tự ngộ, tự tu, thiếu niềm tin sâu, nguyện thiết thật rất tiếc lắm thay.

          Than ôi, đời mạt pháp, có nhiều ý quấy dòng mê: biếm Tịnh nghiệp làn quyền thừa (tạm), chê tụng là thô hạnh (nết thô tu hướng)! Há chẳng phải đắm chìm Hoả Trạch, tự cam chịu nhiều kiếp trầm luân; trái ngược từ thân, rất đau lòng một đời mất uổng? Nên tin rằng: chẳng nương tha lực, không do đâu dứt nghiệp mê lầm, không gặp pháp môn tu niệm Phật, chẳng có đường thoát khỏi luân hồi sanh tử.

          Thế nên, người khinh chê pháp môn, chính là khinh chê tự thân mình. Tình quấy dễ tập, pháp lành khó nghe, luân chuyển trong ba đường dữ, kiếp dài chẳng đặng thoát ra…!

          Tịnh độ cảnh quán yếu môn:

          Nầy, pháp môn tu Tịnh Độ, đối với chúng sanh mạt thế là con đường ra khỏi luân hồi, là chiếc thuyền vững đưa người qua khổ ải. Một khi sanh về cõi kia, mãi mãi chẳng hề thối chuyển. Được thân màu sắc vàng, bay đi tự tại, tự nhiên có cơm ăn áo mặc, thân được thấy Phật mà nghe pháp; nhờ vậy nên rất mau vào ngôi Thánh. Cõi đó không cọp, sói, sư tử, muỗi, ruồi, sâu bọ, bức não; không có sấm sét mưa gió lạnh nóng, đói khát nấu nung. Hoa sen hoá sanh, thọ mạng vô lượng, đã không có mọi thống khổ về sanh già bệnh chết, đó là thế giới Cực Lạc. Cho nên Đức Phật Thích Ca Như Lai, muốn khiến cho chúng sanh mê muội ở cõi nầy rời khỏi mọi nỗi khổ, bèn mở cửa pháp môn chiết nhục. Đức A Di Đà Từ Phụ chỉ cho con đường nhiếp thọ. Sỡ dĩ ta mỏi miệng đinh ninh, riêng khen Tịnh độ phổ khuyến vãng sanh, thiệt bởi vì đó. Cho nên thánh hiền, đạo, tục những người niệm Phật được vãng sanh, chẳng biết bao nhiêu mà kể số! Chỉ vì kẻ phàm phu thấp kém, say đắm vương vít trần lao, chẳng cầu ra khỏi, mà cam tâm trôi dạt trong biển luân hồi. Đau thương lắm thay!

          An lạc tập:

          Người nào hay niệm Phật A Di Đà thì dứt hết thảy nghiệp chướng và được vãng sanh về Tịnh Độ. Tại sao vậy? Ví như có người dùng gân sư tử mà làm dây đàn, tiếng đàn ấy vừa tấu lên thì hết thảy dây đàn khác đều đứt. Nếu người nào đã phát Bồ Đề tâm, mà hay niệm Phật A Di Đà thì chướng nặng phiền não đều dứt đứt tất cả. Lại ví như người lấy sữa bò, dê, lừa, ngựa mỗi thứ đổ vào một cái chén; nếu đem một giọt sữa sư tử mà pha vào đó, thì các thứ sữa hoá ra nước. Nếu người nào đã phát bồ đề tâm, mà hay niệm Phật A Di Đà, thì hết thảy các chướng ác ma tự nhiên tiêu diệt, và người ấy được sanh về Tịnh Độ.

          Quyết Nghi Luận:

          Thân người khó được, Tịnh Độ dễ sanh. Tại sao vậy?

          Năm giới mà chẳng giữ, thì dứt đường nhân loại, bặt nẻo thượng nhiên. Năm giới được thanh tịnh, mới có thể sanh lại làm người. Huống chi năm giới đã khó trì, lại chẳng có nguyện lực nhiếp thọ? Đó gọi là thân người khó được vậy.

          Người tu Tịnh Độ, chẳng nói việc trì giới trọn, chẳng trọn, chỉ niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà mà thôi. Dầu cho có tội nghiệp, pháp môn cũng cho sám hối. Tới lúc mạng chung được Đức Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và Thanh Tịnh Hải chúng đều có nguyện lực, lai đáo tiếp dẫn, nhiếp thọ, đó gọi là Tịnh Độ dễ sanh.

          Tịnh hạnh pháp môn:

          Sám hối, tự siêng chùi gương xưa, tiêu lần bụi mờ bao kiếp.

          Niệm Phật như riêng gặp Vua sáng, bỗng được cứu vớt lúc sau. Trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – ở những lúc đi đứng nằm ngồi, siêng nghĩ cảnh Tịnh Độ trang nghiêm, thường nhớ Đức Phật A Di Đà. Niệm Phật được như vậy, thì tam muội hiện tiền, vãng sanh Tịnh Độ chẳng còn ngờ gì.

          Đại tập Nguyệt Tạng kinh:

          Trong thời mạt pháp, ức ức chúng sanh khởi phát tu tập, nhưng chưa có người nào đắc đạo. Đó đều bởi ở đời ác thế ngũ trược, tu học tạp pháp khó thành. Duy có một môn niệm Phật, có thể thông thoáng đường về. Phật biết rằng: tự hạnh khó tròn, tha lực dễ đến. Tỷ như kẻ sĩ yếu dựa thế Luân Vương du hí cõi tứ Thiên. Lại như chất phàm tục mượn công Tiên dược, phi thăng miền Tam Đảo, thật là đạo dễ hành mau được công tương ứng.

          Ý lành đã bày tỏ đinh ninh, vậy khá khắc cốt ghi tâm.

          Bảo Vương Luận:

          Kẻ tắm ở biển cả, người trì nước ở trăm sông; người trì niệm danh hiệu Phật, ắt thành công phép Tam muội. Tỷ như hạt châu trong bỏ xuống nước đục, nước đục liền trở nên trong. Cũng thế, tiếng niệm Phật gieo vào lòng loạn, lòng loạn hoá thành lòng Phật.

          Pháp Hoa Kinh:

          Nếu những người lòng tán loạn, bước vào trong vòng tháp miếu, xưng một tiếng Nam Mô A Di Đà Phật, thảy đều đã thành Phật đạo.

          Lai nói:

          Danh Phật nghe khắp mười phương, nhiêu ích cho các chúng sanh, đu hết thảy các căn lành, dễ hỗ trợ tâm vô thượng.

          Hoa Nghiêm Kinh:

          Trong tất cả oai nghi, thường niệm công đức Phật, ngày đêm không tạm dứt, hạnh nghiệp ấy nên làm.

          Kinh dạy tiếp:

          Thà chịu cảnh khổ ở địa ngục, mà được nghe danh hiệu chư Phật, chở chẳng chịu cảnh vui vô lượng, mà chẳng được nghe danh hiệu Phật.

          Chánh Pháp Nan Văn phẩm:

          Đức Phật dạy rằng: Nhân dân trong thế gian được nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà, nếu họ từ tâm hoan duyệt, chí ý thanh tịnh, lông tóc dựng lên, đôi tròng rơi luỵ, đó đều là những người đã bao đời thường hành Phật Đạo. Hoặc đó là những vị ở các phương Phật khác, từng hành Bồ Tát đạo, chớ chẳng phải là hạng phàm phu.

          Nếu những kẻ nào chẳng tin lời Phật, chẳng tin niệm Phật, chẳng tin vãng sanh, đó là hạng từ nơi nẻo sanh tử sanh lên tai ương thừa chưa hết, tánh ngu si vẫn còn, chưa có thể giải thoát.

          Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh nầy, mà chẳng đặng nghe. Chừng nghe được rồi đối với quả vô thượng, mãi mãi chẳng hề thối chuyển. Vậy nên phải tín thọ trì niệm, theo như thuyết mà tu hành. Nay Ta giảng pháp cả ấy cho các người nghe. Vì thương xót chúng sanh, nên ta riêng lưu lại pháp nầy.

           Kệ rằng:

                                     Nếu chẳng thuở xưa tu phước huệ

                                     Tới nay chánh pháp dẽ gì nghe

                                     Đã từng khâm phụng chư Như Lai

                                     Vậy có nhơn duyên nghe nghĩa ấy

                                     Kìa cõi Phật kia vui vô hạn

                                     Chỉ Phật với Phật biết mà thôi

                                     Thinh văn, Duyên giác đầy thế gian

                                     Dùng hết thần trí chẳng lường được

                                     Đại thánh Pháp vương tuyên Diệu pháp

                                     Tế độ hết thảy thoát trầm luân

                                     Nếu có ai thọ trì, dương thuyết

                                     Thiệt là bạn tốt đắc bồ đề.

          (những bài kinh, luật, luận trên đây được trích từ Quy Nguyên Trực Chỉ của Ngài Nhứt Nguyên Tông Bổn, trang 93-99, bản dịch Đoàn Trung Còn năm 1958, để cống hiến liên hữu độc giả).

          Đến như, trong Long Thơ Tịnh Độ, Tiến Sĩ Vương Nhật Hưu, một cư sĩ trí thức phát tín tâm tu Tịnh Độ và xiển dương pháp môn Tịnh Độ, một pháp môn mà người tu Phật không ai có thể bỏ qua. Đến như những bậc Thiền Sư đã có trình độ tu chứng, đạo hạnh khả phong, oai nghi lẫm liệt, song con đường giải thoát chính nhân chính đẳng của các Ngài vẫn là niềm tin, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện cầu sanh Tây phương Tịnh Độ.

          Pháp môn niệm Phật là gối đầu giường củangười con Phật chăng? Nếu không chẳng còn ý nghĩa của người tu hành gì cả!

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Tịnh Độ Tông Triều Đại Nhà Minh - Phương Pháp Tu Hành”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com