Mục Lục

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các đức Phật phân thân có chỗ ngồi, nên tám phương kia, mỗi phương lại biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều khiến cho thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngạ quỷ súc sinh và A tu la. Lại dời các trời người để ở cõi khác.

Đức Phật Thích Ca Mau Ni, vì khiến cho phân thân hóa Phật trong mười phương có chỗ ngồi, nên tám phương kia, mỗi phương lại biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều khiến cho thanh tịnh. Chẳng có các địa ngục ngạ quỷ súc sinh, càng chẳng có A tu la. A tu la thích đấu tranh, khiến cho thế giới chẳng bình an, giống như ngựa hại bầy, nhiễu loạn khắp nơi.

Lại dời các người trên trời và người ở nhân gian đến cõi nước khác. Tại sao ? Vì biến cõi đời ác năm trược thành cõi nước thanh tịnh, do đó chuyển họ đến cõi nước khác.

Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm. Dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu nghiêm sức tốt đẹp.

Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, lại có cây báu trang nghiêm, cây bồ đề cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả rất sum sê, đều thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ. Dưới mỗi cây báu, đều có tòa báu sư tử, tòa cao cũng năm do tuần, đều dùng các thứ báu nghiêm sức rất đẹp đẽ.

Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Đại mục chân lân đà, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa thảy, thông làm một cõi nước Phật. Đất báu bằng phẳng, các thứ báu xen nhau làm thành màn, giăng che phủ khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các thứ hoa báu cõi trời rải đầy khắp mặt đất.

Những cõi nước biến hóa ra cũng chẳng có biển cả, sông ngòi, núi đá, núi đá lớn, núi thiết vi, núi thiết vi lớn, núi tu di, các núi chúa thảy. Cõi nước biến hóa ra thông làm thành một cõi nước Phật. Đất báu rất bằng phẳng, chẳng có chỗ lồi lõm. Các thứ báu xen nhau thành màn báu, giăng che khắp ở phía trên. Lại treo các phan báu và lọng báu, đốt hương báu lớn, xa gần đều ngửi được mùi thơm đó. Các thứ hoa quý cõi trời rải khắp trên mặt đất. Cảnh giới như thế diệu không thể tả, đây là cảnh giới biến cõi nước lần thứ ba.

Phẩm nầy nói về ba lần biến hóa cõi nước, rốt ráo là ý nghĩa gì ? Đức Phật Thích Ca dùng thần thông biến cõi ô uế thành cõi thanh tịnh. Ban đầu biến thế giới Ta Bà, thứ nhì biến tám phương kia, mỗi phương làm thành hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, lần thứ ba lại biến tám phương, mỗi phương làm hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, đều khiến cho thanh tịnh, thành cõi tịnh độ. Tại sao phải như thế ? Vì đón tiếp đức Đa Bảo Như Lai, và các phân thân hóa Phật của Phật Thích Ca trong mười phương, cho nên đại sự đều trang nghiêm, biểu thị sự nhiệt liệt hoan nghênh.

Ba lần biến cõi nước lại có ý nghĩa gì ? Lần đầu biến cõi nước là biểu thị đoạn trừ kiến tư (thấy, nghĩ) hai hoặc. Kiến hoặc là gì ? Tức là kiến giải mê hoặc, rất là lợi hại, hại người không ít, vì nó mà không được giải thoát, đời đời kiếp kiếp lưu chuyển ở trong luân hồi sinh tử. Học Phật pháp tức là học pháp đoạn hoặc, tóm lại tức là học trí huệ. Trí huệ hướng về đâu để cầu ? Có câu rằng: ‘’Thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải‘’. Nghiên cứu kinh điển là pháp môn tu của người học Phật pháp.

Tư hoặc là gì ? Tức là tư tưởng mê hoặc. Nói tỉ mỉ thì kiến hoặc là đối cảnh khởi tham ái, thấy tiền tài thì sinh tâm tham, thấy sắc thì khởi thương yêu. Nếu đoạn được kiến hoặc, thì bất cứ gặp cảnh giới gì, cũng chẳng động tâm. Tư hoặc là mê lý khởi phân biệt, đối với đạo lý chẳng minh bạch, khởi lên tâm phân biệt.
Lần thứ hai biến cõi nước, là biểu thị đoạn trừ trần sa hoặc. Trần là vi trần (hạt bụi), sa là cát sông Hằng. Trong ruộng tám thức có nhiều trần sa hoặc. Nếu không đoạn hết, thì vẫn bị chuyển ở trong sự có và không. Trần sa hoặc tuy nhiên rất nhiều, song chính mình chẳng biết. Ví như trong phòng sạch sẽ, trước mắt nhìn thấy giống như chẳng có bụi bặm gì, song ánh sáng mặt trời chiếu vào phòng, thì phát hiện có vô số hạt bụi bay đi bay lại ở trong hư không, lúc lên lúc xuống. Có ánh sáng mặt trời mới thấy được hạt bụi, chẳng có ánh sáng mặt trời, thì chẳng thấy hạt bụi. Ánh sáng mặt trời tức là trí huệ, hạt bụi tức là vọng tưởng. Có trí huệ thì mới phát hiện mình có vọng tưởng.

A La Hán đã đoạn sạch kiến, tư hai hoặc, vẫn chưa đoạn sạch trần sa hoặc. Bồ Tát đã đoạn trần sa hoặc, nhưng vẫn chưa đoạn sạch vô minh hoặc. Kiến tư hoặc là thô hoặc, trần sa hoặc là tế hoặc. Thô hoặc dễ đoạn, tế hoặc chẳng dễ gì đoạn sạch. Do đó, có câu : ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo‘’.

Lần thứ ba biến cõi nước là biểu thị đoạn trừ vô minh hoặc, do đó: ‘’Phá vô minh thấy pháp tánh‘’. Vô minh tức là chẳng minh bạch. Chẳng minh bạch Phật pháp, chẳng rõ sự lý, tức là vô minh. Có vô minh thì có sinh tử, đoạn vô minh thì dứt sinh tử. Chứng đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá (biến dịch sinh tử). Nếu phá được một phần vô minh cuối cùng, thì chứng quả vị Phật.

Kiến, tư hoặc tức là trần sa hoặc, trợ giúp nó chẳng minh bạch. Trần sa hoặc là vô minh trợ giúp nó sinh ra, còn vô minh ai giúp nó sinh ra ? Tức là ngu si. Vô minh hoặc là vi tế hoặc, khó đoạn sạch nhất.

Đại ý Đức Phật Thích Ca ba lần biến cõi nước, là khiến cho chúng ta đoạn trừ ba hoặc. Có ba hoặc thì không thể chứng quả vị Phật, đoạn sạch ba hoặc liền chứng quả vị Phật. Đạo lý nầy rất giản đơn, ai ai cũng đều rõ, song chẳng ai thực hành, Phật cũng chẳng biết làm gì hơn ! Than thở nói : ‘’Chúng sinh khó độ, chẳng biết hồi đầu‘’. Ở trong Phật giáo thường nói :

‘’Biển khổ mênh mông,
Quay đầu thì thấy bờ ‘’.

Chỉ cần quay đầu lại, thì đến bờ bên kia Niết Bàn, đắc được thường lạc ngã tịnh vui sướng thật sự. Song đáng tiếc cho chúng sinh, nhận giả làm thật, tham vui năm dục, chẳng biết đó là năm sợi dây thừng, trói buộc chẳng có ngày ra khỏi.
Ba lần biến cõi nước còn có ý nghĩa dùng tám lìa bỏ (tám giải thoát), tám thắng sứ, mười nhất thiết xứ, ba pháp, làm thiền định xa lìa tham ái ba cõi. Còn gọi là tam muội, còn gọi là ba cửa ải tham thiền.
Tám lìa bỏ là gì ? Lìa là xa lìa, bỏ là vứt bỏ. Xa lìa cảnh giới sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Xả bỏ hưởng thụ năm dục (tài, sắc, danh, thực, thùy). Tám giải thoát là :

1. Bên trong có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài giải thoát : Bên trong có sắc tưởng về ái tình, bên ngoài thấy sắc đẹp thì mê hoặc. Nếu tâm chẳng có thứ tư tưởng nầy, thì bên ngoài bất cứ có sắc đẹp gì, cũng không thể bị ảnh hưởng, tâm chẳng bị cảnh giới lay chuyển. Gặp con trai đẹp, hoặc con gái xinh, phải quán bất tịnh thì tư nhiên được giải thoát.

2. Bên trong không có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài giải thoát : Trong tâm chẳng có sắc tưởng, quán sát sắc tướng bên ngoài, thảy đều là vật không sạch, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Thường quán tưởng như thế, chẳng điên đảo, chẳng chấp trước, thì sẽ đắc được giải thoát.

3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ : Ở trong định quán tưởng diệu sắc quang minh, được như như bất động, liễu liễu thường minh, ở trong thân đầy đủ viên mãn mà trụ ở trong không. Đó là tịnh quán, ở trên là quán bất tịnh.

4. Không vô biên xứ giải thoát : Nhàm chán sắc thân mà tu quán không, đắc được không định, song không cũng phải giải thoát, nếu không thì vẫn có chướng ngại về không, không thể giải thoát.

5. Thức vô biên xứ giải thoát : Lúc đó, cho đến không cũng nhàm lìa, lưu lại thức A lại gia, tiêu diệt hết sáu thức trước, chẳng khởi tác dụng. Chỉ có thức thứ bảy phan duyên vi tế, song chẳng khởi đại tác dụng, cho nên thức cũng phải giải thoát .

6. Vô sở hữu xứ giải thoát : Hàng phục được thức thứ bảy rồi, chỉ còn lại thức thứ tám, chẳng khởi hiện hành. Lúc đó, không cũng chẳng có, thức cũng chẳng có, cái ta (ngã) cũng chẳng có. Song, trong tâm vẫn còn pháp tưởng vô sở hữu, cho nên cũng phải giải thoát.

7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát : Dùng định lực khống chế thức thứ tám, giống như đã hết, cho nên là phi tưởng. Định lực sảo di, thức thứ tám tựa như còn, cho nên là phi phi tưởng. Tưởng thô phải giải thoát, tưởng tế cũng phải giải thoát, đó mới là thật giải thoát.

8. Diệt thọ tưởng định, thân tác chứng cụ túc trụ giải thoát : Tức là khiến cho tâm sở thọ và tâm sở tưởng, hai pháp đều diệt mà chẳng khởi, đây đã diệt thọ tưởng định. Nếu có diệt thọ tưởng thì vẫn không giải thoát, vẫn còn chướng ngại. Nếu có sự chấp trước, thì không thể giải thoát được. Tóm lại, tri kiến đều phải giải thoát, nếu không thì chẳng được giải thoát.

Tám thắng xứ là gì ? Thắng là thắng tri thắng kiến.
- Thắng tri : Phàm là sự biết đều chánh quyết.
- Thắng kiến : Phàm là sự thấy đều là đúng. Thắng tri thắng kiến nầy, với tri kiến của thế gian chẳng giống nhau. Nếu minh bạch được đạo lý tám giải thoát, và tám thắng xứ, thì chẳng bị cảnh giới bên ngoài làm mê hoặc, không làm việc điên đảo. Tám thắng xứ nầy, là quán sát tử thi người chết, có các hiện tượng bất đồng, sau đó mới chứng nhập được cảnh giới thù thắng.

Tám thắng xứ là:
1. Bên trong có các sắc tưởng, quán sắc bên ngoài ít thắng xứ.
2. Bên trong có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài nhiều thắng xứ.
3. Bên trong chẳng có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài ít thắng xứ.
4. Bên trong chẳng có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài nhiều thắng xứ. Ý nghĩa những thắng xứ và tám giải thoát gần giống nhau. Vì chẳng có định lực mà quán nhiều, thì e rằng định lực tán, cho nên phải quán ít thắng xứ. Khi nào có định lực thì hãy quán nhiều thắng xứ. Quán cái gì ? Phải tu chín quán tưởng.

Chín quán tưởng là gì ?
A. Tưởng sình : Tử thi sình lên.
B. Tưởng xanh ứ : Tử thi bị nắng gió biến thành màu xanh ứ.
C. Tưởng hoại : Tử thi tan rã.
D. Tưởng máu chảy : Sau khi thi thể tan rã, thì máu chảy về đất.
E. Tưởng mủ : Thối nát thành mủ.
F. Tưởng ăn : Thi thể bị chim thú ăn.
G. Tưởng phân tán : Sau khi chim thú ăn xong, thì toàn thể xương cốt phân tán rã rời.
H. Tưởng xương cốt : Còn lại đống xương.
I. Tưởng thiêu đốt : Xương cốt bị lửa thiêu đốt trở thành tro đất.
Người tu thiền, phải quán chín quán tưởng nầy, bằng không thì chấp trước có cái ta sẽ không thành công.
5. Xanh thắng xứ.
6. Vàng tháng xứ.
7. Đỏ thắng sứ.
8. Trắng thắng xứ.

Quán xong bất tịnh mới quán phóng quang. Màu xanh phóng ra quang minh màu xanh, màu vàng phóng ra quanh minh màu vàng, màu trắng phóng ra quang minh màu trắng, hiện ra một thứ quanh minh. Lúc đó, đừng chấp trước, giống như chẳng có việc đó, được như vậy thì mới được xứ sự thù thắng.

Mười nhất thiết xứ là gì ? Tức là mười thứ khắp nhất thiết xứ, tức cũng là bốn màu sắc và thêm sáu đại. Nếu có thắng tri, thắng kiến, thì sẽ thành tựu công năng khắp nhất thiết xứ.
1. Xanh khắp nhất thiết xứ.
2. Vàng khắp nhất thiết xứ.
3. Đỏ nhất thiết xứ.
4. Trắng nhất thiết xứ.
5. Địa nhất thiết xứ.
6. Nước nhất thiết xứ.
7. Lửa nhất thiết xứ.
8. Gió nhất thiết xứ.
9. Không nhất thiết xứ.
10. Thức nhất thiết xứ.
Mười pháp nầy, người tham thiền phải minh bạch cảnh giới nầy, sau đó mới phá được sự tham thoại đầu, tức cũng là khai ngộ.

Hoà Thượng Hư Vân lúc khai ngộ nói :

‘’Nãng trước thủ, đả toái bôi
Gia phá nhân vong ngữ nan khai
Xuân đáo hoa hương xứ xứ tú
Sơn hà đại địa thị Như Lai‘’.

Nghĩa là :

‘’Tay bị nóng, đập nát ly,
Nhà tan người mất khó nói nên lời.
Xuân đến hoa thơm đâu đâu cũng đẹp,
Sông núi đất đai đều là Như Lai.’’

Tức là cảnh giới nầy, hết thảy đều không.
Ba lần biến cõi nước, lần thứ nhất biểu thị tám xả lìa, lần thứ hai biểu thị tám thắng xứ, lần thứ ba biểu thị mười nhất thiết xứ. Nghĩa lý của kinh văn thâm áo vô cùng, phải quán thông kinh nghĩa, mới có hữu dụng, bằng không thì nuốt trựng, ăn mà chẳng biết mùi vị. Đọc kinh văn mà không cầu hiểu rõ, không biết tông chỉ của kinh, suốt ngày ngủ với vô minh, ăn cơm với phiền não, làm bạn với ba hoặc, như thế thì làm sao có sự thành tựu ? Tóm lại, hiểu biết thì lìa khỏi chúng, chẳng hiểu biết thì bị chúng làm mê.
Người học Phật pháp, vừa học vừa thực hành mới có hiệu quả. Học mà không hành, dù học bao nhiêu cũng chẳng ích gì. Tức là học một câu mà áp dụng, thì sẽ đắc được vô lượng lợi ích. Bệnh lớn nhất của người học Phật pháp là, nói được mà làm chẳng được, đó là khẩu đầu thiền.

Bấy giờ, các đức Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni ở phương đông, trong trăm vạn ức Na do tha cõi nước, mỗi vị đang thuyết pháp ở cõi đó, đều tụ tập lại. Như thế lần lược các đức Phật trong mười phương, cũng đều tụ tập lại ngồi ở tại tám phương.
Lúc đó, các hóa Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong trăm ức Na do tha Hằng hà sa cõi nước, đều đang ở cõi đó thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, vì đức Đa Bảo Như Lai đến pháp hội Linh Sơn làm chứng minh, cho nên các Ngài đều từ biệt đại chúng, để tụ tập về núi Linh Sơn.
Tại sao đức Đa Bảo Như Lai đến hội Pháp Hoa núi Linh Thứu thế giới Ta Bà để làm chứng ? Vì thuở xưa Ngài đã từng phát nguyện : ‘’Phàm là có đạo tràng diễn nói Kinh Pháp Hoa, thì ta nhất định đến trước làm chứng minh‘’.
Lần lược như thế, từ phương đông bắt đầu; mười phương chư Phật đều đến tụ tập tại pháp hội Linh Sơn, ngồi ở tám phương của bảo tháp.

Bấy giờ, tại mỗi phương đều có bốn trăm vạn ức Na do tha cõi nước, các đức Phật Như Lai đều đầy khắp trong đó.
Lúc đó, ở tại mỗi phương đều có bốn trăm vạn ức Na do tha cõi nước, cõi nước biến hóa ra, rất thanh tịnh trang nghiêm. Các đức Phật phân thân của Phật Thích Ca đều đầy khắp trong đó.

Bấy giờ, các đức Phật đều ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, rồi sai thị giả đến thưa hỏi đức Phật Thích Ca, và đều đưa cho một bó hoa báu, mà dặn dò rằng : Thiện nam tử ! Ngươi hãy đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ của Phật Thích Ca Mâu Ni, theo như lời của ta nói rằng : Đức Thế Tôn ít bệnh, ít khổ não, sức khỏe an vui chăng ! Các chúng Bồ Tát Thanh Văn đều an ổn chăng !
Lúc đó, phân thân chư Phật mười phương đều ngồi trên tòa sư tử dưới cội bồ đề, rồi phái thị giả đến đạo tràng của đức Phật Thích Ca để thăm hỏi. Chư Phật tay cầm bó hoa báu đưa cho thị giả, dặn dò thị giả rằng : ‘’Thiện nam tử ! Ông đến núi Linh Thứu đạo tràng của Phật Thích Ca, thế ta nói thế nầy : Đức Thế Tôn ! Ngài có khỏe chăng ? Chẳng có bệnh tật, chẳng có khổ não chứ ! Thân tâm an lạc chứ ! Hàng Bồ Tát và Thanh Văn đều an ổn chăng ! Thăm hỏi xong rồi, thì dâng hoa báu cúng dường đức Phật‘’.

Dùng hoa báu này rải lên cúng dường đức Phật, rồi bạch rằng : Đức Phật đó cùng muốn mở bảo tháp này, các đức Phật sai sứ đến cũng lại như thế.
Chư Phật lại dặn dò thị giả nói : ‘’Đem hoa báu nầy rải lên cúng dường đức Phật Thích Ca, sau đó nói với đức Phật rằng : Đức Phật đó muốn mở Bảo Tháp của đức Đa Bảo Như Lai, để chiêm ngưỡng đức tướng của đức Đa Bảo Như Lai.’’ Chẳng những một vị Phật sai thị giả đến tham hỏi đức Phật, cúng dường đức Phật, mà mười phương chư Phật, đều thăm hỏi và cúng dường như thế.

Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy tất cả chư Phật phân thân, đều đã tụ lại, đều ngồi trên tòa sư tử, đều nghe các đức Phật cùng muốn mở bảo tháp. Bèn từ tòa đứng dậy, trụ ở trong hư không, tất cả bốn chúng đều đứng dậy, chắp tay một lòng nhìn Phật.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy chư Phật phân thân của mình, đã tụ tập lại hết trên núi Linh Thứu. Mỗi vị Phật đều ngồi trên tòa báu sư tử. Lại nghe mười phương chư Phật muốn mở bảo tháp, lập tức từ tòa báu đứng dậy, trụ ở trong hư không. Lúc đó, tất cả bốn chúng đệ tử cùng nhau đứng dậy cung kính chắp tay, đại chúng một lòng nhìn Phật mở cửa bảo tháp như thế nào ? Tụ tinh hội thần để chờ.

Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tay phải, mở cửa tháp bảy báu vang ra âm thanh lớn, như tháo chốt mở cửa thành lớn.
Lúc ấy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tay phải mở cửa tháp bảy báu, từ trong tháp vang ra âm thanh rất lớn, giống như tháo chốt mở cửa thành lớn. Phật dùng tay phải mở bảo tháp, là biểu thị khai quyền. Đức Đa Bảo Như Lai hiện thân, là biểu thị hiển thật. Có câu : ‘’Khai quyền hiển thật‘’, thu pháp môn quyền xảo phương tiện lại, bây giờ hiển lộ ra pháp môn chân thật. Kinh điển lúc trước Phật giảng, là pháp quyền xảo phương tiện, bây giờ giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mới là pháp chân thật. Đây tức là tông chỉ của bổn kinh nầy.

Bấy giờ, tất cả đại chúng trong pháp hội, đều thấy đức Đa Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong bảo tháp, toàn thân không tán hoại, như nhập thiền định.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni mở cửa bảo tháp, hết thảy bốn chúng đệ tử trong pháp hội, đều nhìn thấy toàn thân của đức Đa Bảo Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, an nhiên tồn tại chẳng tan hoại, giống như an tường nhập vào thiền định, khiến cho người thấy sinh tâm cung kính. Vì sao ? Vì có uy đáng sợ, có nghi đáng kính.

Lại nghe đức Đa Bảo Như Lai nói : Lành thay, lành thay ! Phật Thích Ca Mâu Ni, xin hãy mau nói Kinh Pháp Hoa, ta vì nghe kinh này mà đến đây.
Lúc ấy, lại nghe đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp nói : ‘’Lành thay, lành thay ! Phật Thích Ca Mau Ni, xin Ngài hãy mau nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ta vì nghe Kinh Pháp Hoa mà đến đây‘’. Đức Đa Bảo Như Lai vì thuở xưa phát nguyện mà đến làm chứng minh.

Bấy giờ, bốn chúng thấy Phật đã diệt độ trong quá khứ, vô lượng ngàn vạn ức kiếp nói lời như thế, khen chưa từng có. Đại chúng đều dùng hoa báu cõi trời, tụ lại rải lên trên đức Phật Đa Bảo, và Phật Thích Ca Mâu Ni.
Lúc đó, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng đệ tử nhìn thấy đức Đa Bảo Như Lai, đã diệt độ vô lượng ngàn vạn ức kiếp trong quá khứ, ở trong bảo tháp nói ra lời như thế, đại chúng khen ngợi chưa từng có, đại chúng đều dùng hoa báu cõi trời, tụ lại rải lên trên thân đức Phật Đa Bảo, và Phật Thích Ca Mâu Ni.

Bấy giờ, đức Phật Đa Bảo ở trong bảo tháp, chia nửa tòa ngồi cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà nói rằng : Phật Thích Ca Mâu Ni, hãy lên ngồi trên tòa này. Tức thời, Phật Thích Ca Mâu Ni vào trong bảo tháp đó, ngồi kiết già trên nửa tòa đó.
Lúc đó, đức Đa Bảo Như Lai ở trong bảo tháp, nhường nửa tòa báu sư tử cho Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi, mà nói rằng : ‘’Phật Thích Ca Mâu Ni ! Ngài hãy lên ngồi bên cạnh tôi, chúng ta hai người cùng ngồi chung một tòa‘’. Tức thời, Phật Thích Ca Mâu Ni bèn vào trong bảo tháp, cùng ngồi một tòa với Phật Đa Bảo, ngồi kiết già trên tòa báu sư tử.

Bấy giờ, đại chúng thấy hai đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa sư tử trong tháp bảy báu, ai nấy đều nghĩ : Đức Phật ngồi quá cao xa, xin nguyện đức Như Lai dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng con đều đến trong hư không.
Lúc đó, đại chúng trong hội Pháp Hoa, nhìn thấy hai vị Phật cùng ngồi kiết già trên tòa báu sư tử ở trong bảo tháp, rất gần gũi, giống như là bạn bè thân thiết. Đại chúng đều nghĩ như vầy : ‘’Hai vị Phật ngồi ở trong bảo tháp vừa cao vừa xa, khiến cho chúng con nhìn chẳng rõ ràng, nghe chẳng rõ ràng. Xin nguyện Như Lai từ bi dùng sức đại thần thông, đem tất cả đại chúng chúng con ở trong pháp hội đều đến trong hư không, để chiêm ngưỡng Như Lai, lễ lạy Như Lai thì tiện hơn‘’.

Tức thời, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng sức thần thông, tiếp các đại chúng đều đến trong hư không, dùng âm thanh lớn bảo khắp bốn chúng : Ai có thể ở cõi Ta Bà này, mà rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì nay chính là phải thời. Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ vào Niết Bàn. Phật muốn đem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, phó chúc cho mọi người.
Lúc đó, vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, nên biết được đại chúng khởi vọng tưởng, bèn sinh tâm thương xót, dùng sức thần thông tiếp họ đến trong hư không, để làm mãn nguyện của đại chúng.
Đức Phật Thích Ca lại dùng âm thanh lớn, bảo khắp bốn chúng đệ tử nói rằng : ‘’Ai có thể ở cõi Ta Bà nầy, rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì hôm nay chính là phải thời. Vì ta (Phật Thích Ca), sau khi nói xong Kinh Pháp Hoa, thì chẳng bao lâu sẽ vào Niết Bàn. Mỗi vị Phật đều muốn đem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phó chúc cho mọi người, mong có người gánh vác trách nhiệm nầy, nối Phật huệ mạng, khiến cho chánh pháp vĩnh viễn lưu lại ở đời, chẳng khiến cho đoạn tuyệt‘’ !

Các bạn chú ý ! Thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng Kinh Pháp Hoa, giải nói Kinh PHáp Hoa, ấn tống Kinh Pháp Hoa, truyền bá Kinh Pháp Hoa, đều có công đức không thể tưởng tượng được. Đọc tụng Kinh Pháp Hoa, có thể từ trong miệng phun ra xá lợi, biên chép Kinh Pháp Hoa, có thể từ ngòi bút nhả ra xá lợi, đây là sự thật ngàn chân vạn quyết.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :

Thánh chúa Thế Tôn
Tuy diệt độ lâu
Ở trong bảo tháp
Còn vì pháp đến.
Các ngươi thế nào
Chẳng siêng vì pháp !

Đoạn kinh văn nầy, Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Đức Đa Bảo Như Lai đã phát nguyện, phàm có đạo tràng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đức Đa Bảo Như Lai nhất định đến trước để nghe pháp, làm chứng minh. Các bạn thấy đó ! Nơi nào giảng nói Kinh Pháp Hoa, thì đức Đa Bảo Như Lai đều đến nghe kinh, hà huống là phàm phu chúng ta, càng phải đến chỗ giảng nói Kinh Pháp Hoa để nghe kinh.

‘’Thánh chúa Thế Tôn‘’, đây là chỉ đức Đa Bảo Như Lai mà nói, tôn kính Ngài là chúa trong bậc Thánh. Thế Tôn là bậc tôn kính nhất của thế và xuất thế gian. Tuy nhiên Ngài đã diệt độ vô lượng kiếp về trước, trụ ở trong bảo tháp. Ngài đã thành Phật thì không cần nghe pháp nữa, song Ngài vì nghe Kinh Pháp Hoa, mà còn đến pháp hội núi Linh Thứu thế giới Ta Bà. Các vị ! Tại sao không siêng tu Phật pháp ?

Không siêng vì pháp tức là lười biếng, giải đãi, phóng dật, không tinh tấn, tức cũng là chẳng chuyên tâm để nghe pháp. Người chân chính tin Phật, thì trừ khi chẳng có pháp hội giảng kinh, nếu có, thì bất cứ bận như thế nào, nhất định cũng phải thu xếp thời gian đến tham gia. Tại sao ? Vì nghe kinh còn quan trọng hơn là sinh mạng. Một ngày không ăn cơm thì có thể được, chứ một ngày không nghe kinh thì không thể được. Nghe kinh thì hiểu biết pháp môn liễu sinh thoát tử, y theo pháp tu hành thì chắc chắn sẽ được giải thoát. Hơn nữa, nghe kinh được ấn tượng càng thâm sâu hơn là xem kinh, đo đó có câu :

‘’Một buổi nghe giảng,
Hơn mười năm đọc sách‘’.

Có thể đổi là :

‘’Một buổi nghe giảng kinh,
Còn hơn đọc mười quyển kinh‘’.

Phật đó diệt độ
Vô lượng số kiếp
Khắp nơi nghe pháp
Vì khó được gặp.
Nguyện xưa Phật đó
Sau khi ta diệt
Đến khắp mọi nơi
Thường vì nghe pháp.
Từ khi đức Đa Bảo Như Lai diệt độ đến nay, trải qua thời gian vô lượng kiếp, đến khắp nơi nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Phàm có nơi nào giảng Kinh Pháp Hoa, thì nhất định đến trước tham gia làm chứng. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Kinh Pháp Hoa, thì Ngài ở trong bảo tháp từ dưới đất vọt lên, trụ ở trong hư không để làm chứng minh.
Đức Đa Bảo Như Lai tức nhiên đã thành Phật, tại sao còn đến để nghe Kinh Pháp Hoa ? Vì kinh nầy chẳng dễ gì gặp được. Do đó, có câu :

‘’Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai‘’.

Đây là bài kệ khai kinh, của nữ hoàng đế Vũ Tắc Thiên đời Đường làm ra. Trước khi đọc tụng kinh thì tụng bài kệ nầy trước.

Thuở xưa đức Đa Bảo Như Lai từng phát nguyện rằng : ‘’Nếu ta thành Phật, thì sẽ ủng hộ đạo tràng giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau khi ta diệt độ, bất cứ nơi nào, đức Phật nào nói Kinh Pháp Hoa, thì ta thường đến nghe pháp và làm chứng minh‘’.
Tại sao phát nguyện như vậy ? Vì Kinh Pháp Hoa là kinh khó gặp được, Ngài muốn làm ảnh hưởng chúng, dẫn dắt mọi người cùng đến tham gia pháp hội, khiến cho đại chúng biết kinh nầy là vua trong các kinh, là kinh thành Phật, do đó có câu :

‘’Kinh Lăng Nghiêm là kinh khai ngộ,
Kinh Pháp Hoa là kinh thành Phật‘’.

Ta lại phân thân
Vô lượng chư Phật
Như cát sông Hằng
Đến muốn nghe pháp.
Và thấy Đa Bảo
Như Lai diệt độ
Đều bỏ cõi nước
Và chúng đệ tử.
Trời người rồng thần
Các sự cúng dường
Khiến pháp trụ lâu
Nên đến nơi này.
Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói : ‘’Ta phân thân vô lượng chư Phật, nhiều như số các sông Hằng, đều đến nơi nầy nghe Kinh Pháp Hoa. Các Ngài còn muốn thấy đức Đa Bảo Như Lai, đã diệt độ vô lượng kiếp, cho nên phân thân hóa Phật trong mười phương, đều bỏ cõi nước của mình, và các hàng đệ tử mà đến núi Linh Thứu‘’.
Chư thiên loài người, các vị rồng các vị thần, đều đến cúng dường đức Đa Bảo Như Lai, vì khiến cho chánh pháp trụ lâu ở đời, cho nên đức Đa Bảo Như Lai, và mười phương chư Phật đều đến chỗ nầy.

Vì chư Phật ngồi
Mà dùng thần thông
Dời vô lượng chúng
Khiến nước thanh tịnh.
Mỗi mỗi vị Phật
Đến dưới cây báu
Như đất thanh tịnh
Hoa sen trang nghiêm.
Ta vì các đức Phật phân thân an trí tòa ngồi, mà dùng sức thần thông, đêm vô lượng chúng sinh dời đến cõi nước khác, khiến cho cõi nước nầy thanh tịnh, biểu thị sự hoan nghênh khách quý quang lâm.
Mười phương chư Phật, đều đến dưới cội bồ đề, ngồi trên tòa báu sư tử, như đất thanh tịnh. Dùng các thứ màu sắc hoa sen để trang nghiêm.

Phật ngồi ở trên
Tòa báu sư tử
Dưới các cây báu
Quang minh nghiêm sức.
Như trong đêm tối
Đốt đuốt lửa lớn.
Sau ba lần biến cõi nước, làm cho thế giới biến thành thanh tịnh, phân thân chư Phật đều đến dưới cội bồ đề, ngồi trên tòa báu sư tử. Mỗi tòa báu đều dùng bảy báu để trang nghiêm, phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả, giống như trong đêm tối đốt đuốc lửa lớn, phá màn đêm tối.

Thân tỏa hương thơm
Khắp mười phương cõi.
Chúng sinh ngửi được
Thảy đều vui mừng
Ví như gió lớn
Thổi nhánh cây nhỏ.
Do phương tiện đó
Khiến pháp trụ lâu.
Trên thân của phân thân chư Phật, đều tỏa ra hương thơm vi diệu, xông khắp cõi nước mười phương. Hết thảy chúng sinh được mùi hương nầy huân nhiễm, thì đều vui mừng mà phát tâm bồ đề. Giống như gió lớn thổi nhánh cây nhỏ, làm rung động, tức cũng thọ được lợi ích của Phật pháp. Dùng pháp thiện xảo phương tiện nầy, vì muốn khiến cho Phật pháp trụ lâu ở đời. Cho nên, trước hết giảng quyền pháp, sau giảng thật pháp, là ý nghĩa nầy.
Phàm là người chân chánh tu trì, nghiêm giữ giới luật, tuyệt đối không phạm giới, đời đời như thế, kiếp kiếp như thế, thì thân thể tự nhiên sẽ tỏa ra mùi thơm hoa sen, là hương thơm nhè nhẹ, chứ chẳng phải mùi thơm nồng nặc, không làm cho người có cảm giác sặc mũi. Người giữ giới, dù nhiều ngày không tắm rửa, cũng chẳng có mùi hôi, mà còn tỏa hương thơm. Người không giữ giới, thì thân hôi như chồn hôi, khiến người nhàm chán.

Bảo các đại chúng :
Ta diệt độ rồi.
Ai hay thọ trì
Đọc nói kinh này
Nay ở trước Phật
Tự phát thệ nguyện.
Đức Phật Thích Ca lại bảo đại chúng nói : ‘’Sau khi ta nói xong Kinh Pháp Hoa, thì sẽ vào Niết Bàn. Sau khi ta diệt độ rồi, ai hay phát nguyện thọ trì kinh nầy, đọc tụng kinh nầy, bây giờ ở trước Phật Đa Bảo và phân thân chư Phật, tự phát thệ nguyện‘’. Từ nay về sau hãy thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Bất cứ gặp khó khăn gì, cũng không thay đổi, nhất định quán triệt thủy chung, không cô phụ kỳ vọng của Như Lai.

Phật Đa Bảo đó
Tuy diệt độ lâu.
Nhờ thệ nguyện lớn
Mà sư tử hống
Đa Bảo Như Lai
Cùng với thân ta.
Tụ tập hóa Phật
Sẽ biết ý đó.
Đức Đa Bảo Như Lai đó, tuy diệt độ đã lâu, song nhờ thệ nguyện lớn của Ngài, mà ở trong bảo tháp làm sư tử hống. Đức Đa Bảo Như Lai, và thân ta cùng với phân thân hóa Phật, đều biết được ý của các vị phát nguyện. Sau đó, sẽ hộ trì các vị, khiến cho thân tâm an ổn, chuyên tâm tu đạo.

Các Phật tử thảy
Ai hay hộ pháp.
Nên phát nguyện lớn
Khiến pháp trụ lâu
Có người hộ trì
Kinh Pháp Hoa này.
Tức là cúng dường
Ta và Đa Bảo.
Các đệ tử của Phật ! Ai có tâm hộ pháp, thì nên phát tâm thệ nguyện lớn, khiến cho Kinh Pháp Hoa trụ lâu ở đời.
Nếu như có người hay hộ trì Kinh Pháp Hoa, thì công đức cũng như cúng dường ta và Phật Đa Bảo. Tại sao ? Vì Kinh Pháp Hoa là chân thân của Như Lai. Do đó:

‘’Trong các sự cúng dường
Cúng dường pháp là hơn hết‘’.

Cúng dường tiền tài là tu phước, cúng dường pháp là tu huệ. Phước huệ song tu, công đức mới viên mãn.

Phật Đa Bảo đó
Trụ trong bảo tháp.
Thường du mười phương
Để vì kinh này
Cũng lại cúng dường
Các hóa Phật đến.
Trang nghiêm quang sức
Tất cả thế giới
Nếu nói kinh này
Tức là thấy ta.
Đa Bảo Như Lai
Và các hóa Phật.
Vị Đa Bảo Như Lai nầy, tuy ngồi ở trong bảo tháp, song thường đến khắp mười phương thế giới, để vì chứng minh Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nếu các vị phát tâm cúng dường Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đồng như cúng dường các hóa Phật của ta phân thân. Trang nghiêm tất cả cõi nước, quang sức tất cả thế giới.
Giả sử hay giải thích nói Kinh Pháp Hoa nầy, thì thấy được thân ta và thân đức Đa Bảo Như Lai, và các phân thân hóa Phật của ta.

Các thiện nam tử !
Hãy suy nghĩ kỹ.
Đây là việc khó
Nên phát nguyện lớn
Các kinh điển khác
Số như Hằng sa.
Tuy nói rất nhiều
Chưa phải là khó.
Các vị thiện nam tử ! Các vị phải suy nghĩ cho kỹ đạo lý nầy. Hãy phát nguyện thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống bộ kinh đển nầy, đây là việc rất khó. Các vị nên phát thệ nguyện lớn, đời đời kiếp kiếp gần gũi Tam Bảo, gần gũi thiện tri thức, ủng hộ thiện tri thức.
Ngoại trừ Kinh Pháp Hoa ra, còn có rất nhiều kinh điển, số lượng nhiều như số các sông Hằng, tuy nhiên nói nhiều kinh điển, song cũng chẳng phải là việc khó.

Nếu cầm Tu Di
Ném qua phương khác.
Vô số cõi Phật
Cũng chưa phải khó
Nếu dùng chân tay
Động cõi đại thiên.
Ném xa cõi khác
Cũng chưa phải khó.

Nếu như cầm toà núi Tu Di lên, ném qua vô lượng cõi Phật khác, cũng chưa phải là việc khó. Chỉ cần có thần thông thì làm được.Nếu như dùng chân di động đại thiên thế giới, ném thế giới qua phương khác, đây cũng chẳng phải là việc khó.

Nếu đứng trên trời
Vì chúng diễn nói.
Vô lượng kinh khác
Cũng chưa phải khó
Nếu Phật diệt độ
Ở trong đời khác.
Hay nói kinh này
Đó mới là khó.
Nếu như đứng trên Trời Hữu Đảnh (Trời vô sắc giới Phi Phi Tưởng Xứ), vì chúng sinh diễn nói vô lượng các thứ kinh, cũng chẳng phải là việc khó. Chỉ cần có bản lãnh ngũ nhãn lục thông thì làm được, chẳng có gì chướng ngại. Nếu như sau khi Phật diệt độ, có người nào ở trong đời ác năm trược, giải nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đó mới là việc khó làm nhất.

Nếu như có người
Tay cầm hư không.
Dùng để du hành
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nếu tự biên trì.
Hoặc khiến người biên
Đó mới là khó.
Nếu như có người dùng phép thần thông, tay cầm hư không, du hành khắp nơi, việc nầy vẫn chưa kỳ lạ, có thể làm được.
Song sau khi Phật diệt độ, nếu có người biên chép kinh nầy, hoặc khiến người biên chép kinh nầy, đây là việc chẳng đễ gì làm được. Tại sao ? Vì cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng có ai tin.

Nếu dùng đại địa
Để lên bàn chân.
Thăng lên Phạm Thiên
Cũng chưa phải khó
Sau Phật diệt độ
Ở trong đời ác.
Tạm đọc kinh này
Đó mới là khó.
Nếu như có người, đem đại địa để trên bàn chân, bay lên đến Trời Đại Phạm, cũng chưa phải là việc khó.
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ rồi, mà ở trong đời ác năm trược, trong khoảng thời gian ngắn mà đọc tụng kinh nầy, đó mới là việc rất khó, chẳng dễ gì làm được.

Các vị chú ý ! Người chẳng có căn lành, thì chẳng thể nào nghe được tên kinh Diệu Pháp Liên Hoa, càng không thể nào đọc tụng được Kinh Pháp Hoa, và thấy được kinh văn Diệu Pháp Liên Hoa. Hiện tại các vị là người may mắn, nghe được Kinh Pháp Hoa ở trong Phật giáo giảng đường, đó là trong quá khứ đã phát thệ nguyện gần gũi kinh nầy, thọ trì kinh nầy. Đời nầy gặp được đạo tràng giảng Kinh Pháp Hoa, nhân duyên nầy khó gặp được, các vị phải trân tiết, đừng để trôi qua lãng phí.

Nếu như kiếp thiêu
Gánh vác cỏ khô.
Vào trong không cháy
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nếu trì kinh này.
Vì một người nói
Thì mới là khó.
Nếu như lúc kiếp hỏa thiêu cháy, mà có người gánh vác cỏ khô, đi vào trong kiếp hỏa mà không bị kiếp hỏa thiêu đốt, đó cũng chẳng phải việc khó. Chỉ cần có thần thông thì làm được. Sau khi Phật diệt độ, nếu có ai thọ trì kinh nầy, hoặc vì một người giải nói, thì đó là việc khó, chẳng dễ gì làm được.

Nếu trì tám vạn
Bốn ngàn tạng pháp.
Mười hai bộ kinh
Vì người diễn nói
Khiến các người nghe
Được sáu thần thông.
Tuy được như thế
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nghe thọ kinh này.
Hỏi nghĩa trong kinh
Đó mới là khó.
Nếu như có người thọ trì tám muôn bốn ngàn tạng pháp, vì người nói mười hai bộ kinh, khiến cho tất cả người nghe pháp đều được sáu thần thông, tuy nhiên được như thế, song cũng chẳng phải là việc khó.
Sau khi ta diệt độ, nếu có người nghe thọ trì được kinh nầy, và hỏi nghĩa thú trong kinh nầy, thì đó mới là một việc rất khó.
Mười hai bộ kinh là gì ? Tức là

‘’Trường hàng, trùng tụng, cập thọ ký
Cô khởi, vô vấn nhi tự thuyết
Nhân duyên, ví dụ dữ bổn sự
Bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu
Luận nghị cộng thành thập nhị bộ‘’.

Trường hàng, trùng tụng, cô khởi, là kinh văn thể tài (lựa ra từng lối).
1. Trường hàng : Tức là văn dài trong kinh.
2. Trùng tụng : Tức là nghĩa lý của kinh trường hàng ở trên, dùng kệ để thuật lại.
3. Thọ ký : Phật thọ ký cho Bồ Tát sẽ thành Phật.
4. Cô khởi : Đột nhiên ở giữa khởi lên một bài kệ, nghĩa lý của nó chẳng liên quan đến kinh văn ở trước.
5. Bất vấn nhi tự thuyết : Chẳng có người thỉnh pháp, mà Phật tự động nói ra kinh văn.
6. Nhân duyên : Tức là nhân duyên gặp Phật nghe pháp, hoặc nhân duyên Phật nói pháp giáo hóa chúng sinh.
7. Ví dụ : Trong kinh văn nói ví dụ.
8. Bổn sự : Phật nói nhân duyên của đệ tử trong quá khứ.
9. Bổn sanh : Tức là Phật nói nhân duyên của mình trong quá khứ.
10. Phương quảng : Tức là Phật nói kinh văn chân lý phương chánh quảng đại.
11. Vị tăng hữu : Kinh văn Phật hiện thần thông.
12. Luận nghị : Kinh văn giữa Phật và đệ tử hổ tương vấn đáp.

Sáu thần thông là gì ? Người khai ngộ mới chứng được cảnh giới nầy.
1. Thiên nhãn thông : Trên các cõi trời, dưới các địa ngục, đều nhìn thấy rất rõ ràng .
2. Thiên nhĩ thông : Chẳng những nhìn thấy được chư Thiên từng cử chỉ hành động, mà còn nghe được từng lời nói tiếng cười của chư Thiên, rõ như vô tuyến điện.
3. Tha tâm thông : Biết được trong tâm của kẻ khác nghĩ việc gì và muốn nói gì.
4. Túc mạng thông : Quán sát được nhân duyên và nhân quả của mình và kẻ khác, trong quá khứ và vị lai .
5. Thần túc thông : Có thể ở trong định, đến đi tự do, chẳng bị bất cứ gì hạn chế.
6. Lậu tận thông : Chẳng có phiền não, chẳng có vọng tưởng, tất cả lậu đều tiêu sạch, chẳng khởi tác dụng. Ngoại đạo và quỷ thần chỉ có năm thần thông, mà chẳng có lậu tận thông, chư Phật Bồ Tát A La Hán, mới có đủ sáu thần thông.

Nếu người nói pháp
Khiến ngàn vạn ức.
Vô lượng vô số
Hằng sa chúng sinh
Được A la hán
Đủ sáu thần thông.
Tuy có lợi ích
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nếu hay phụng trì.
Kinh Pháp Hoa này
Đó mới là khó.
Nếu như có người thuyết pháp, khiến cho vô lượng chúng sinh nhiều như cát sông Hằng, đều đắc được quả vị A La Hán, đều đủ sáu thần thông. Tuy có ích lợi như thế, song vẫn chẳng phải là việc khó.
Sau khi Phật diệt độ, nếu có ai hay phụng trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đó mới là việc rất khó.

Chúng ta phàm phu phải nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật Đa Bảo và phân thân hóa Phật của Phật Thích Ca, cũng đến pháp hội Linh Sơn nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Do đó, đủ biết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa quan trọng như thế nào ! Kinh nầy là kinh thành Phật. Muốn thành Phật phải thọ trì kinh nầy, chẳng có pháp nào khác.

Trước khi chưa giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tôi không nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là kinh khó gặp khó thấy. Bây giới giảng đến đây, trong kinh văn cũng nói rất rõ ràng. Hy vọng mọi người chú ý nghe ! Công đức nghe được Kinh Pháp Hoa, cảm ứng trí huệ đời sau không thể hạn lượng. Giống như nước biển cả lấy không hết, dùng không cạn được.

Tại sao chúng ta ngu si ? Tại sao có sự nóng giận ? Tại sao có vọng tưởng ? Tại sao có phiền não ? Đều vì chẳng từng nghe qua Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh nầy có chỗ diệu không thể nghĩ bàn. Chỗ diệu nầy không thể suy nghĩ, không thể luận bàn, chỉ có chính người thực hành thể hội mới biết diệu vị đó.

Ta vì Phật đạo
Trong vô lượng cõi
Từ xưa đến nay
Rộng nói các kinh.
Mà ở trong đó
Kinh này bậc nhất
Nếu người hay trì
Tức là thân Phật.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Ta vì giáo hóa chúng sinh, đều vì thành Phật đạo, cho nên ở trong vô lượng cõi nước chư Phật, từ bắt đầu cho đến hiện tại, đã rộng giải thích nói rất nhiều kinh điển. Trước hết nói Kinh Hoa Nghiêm, tiếp theo nói Kinh A Hàm, sau đó nói Kinh Phương Đẳng và Kinh Bát Nhã, bây giờ mới nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ở trong các kinh mà Phật nói, thì Kinh Pháp Hoa nầy là bậc nhất.’’ Đây là bộ kinh ít có nhất.
Nếu như có người hay thọ trì kinh nầy, tức là trì chân thân của Chư Phật. Chân thân của Phật ở trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, do đó :

‘’Vào nhà Như Lai,
Mặc áo Như Lai,
Ngồi tòa Như Lai‘’.

Ba thứ nầy tức là thọ trì chân thân của Phật.

Các thiện nam tử !
Sau ta diệt độ
Ai hay thọ trì
Đọc tụng kinh này.
Nay ở trước Phật
Tự nói lời thề.

Các vị thiện nam tử ! Sau khi ta diệt độ, ai hay thọ trì kinh nầy, đọc tụng kinh nầy, giải nói kinh nầy, biên chép kinh nầy, ấn tống kinh nầy. Hiện tại ở trước Phật, tự nói ra lời thề. Người học Phật, nhất định phải phát nguyện, nguyện lực khiến cho mình hướng về chánh đạo tiến về trước, không thể lầm vào đường tà. Phát nguyện mà không thực hành, cũng giống như cây nở hoa giả, chẳng có ích gì.

Kinh này khó trì
Nếu ai tạm trì.
Ta rất hoan hỉ
Chư Phật cũng thế
Những người như thế
Được Phật khen ngợi.
Đó là dũng mãnh
Đó là tinh tấn
Đó gọi trì giới
Người hành đầu đà.
Thì mau đắc được
Phật đạo vô thượng.

Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là kinh khó thọ trì, người chẳng có căn lành chân chánh, thì không thọ trì được. Nếu như có người đời nầy tạm thời thọ trì, đọc tụng kinh điển, thì ta rất hoan hỉ, chư Phật cũng hoan hỉ. Tại sao ? Vì người nầy căn lành sâu dày, đảm đang được trách nhiệm lớn, khiến cho Phật pháp lưu truyền thế gian, làm cho chúng sinh được nghe Tam Bảo, phát tâm bồ đề, thành vô thượng đạo.
Người nầy thọ trì Kinh Pháp Hoa, được mười phương chư Phật khen ngợi, người nầy thọ trì dũng mãnh tinh tấn không giải đãi, nghiêm giữ giới luật không phóng dật. Tu hành mười hai hạnh đầu đà, thì mau chứng được quả vị Phật.

Mười hai hạnh đầu đà là :
1. Mặc y phấn tảo.
2. Chỉ có ba y.
3. Thường đi khất thực.
4. Thứ lớp khất thực.
5. Ngày ăn một bữa.
6. Tiết lượng ăn uống.
7. Quá ngọ không uống nước có chất bổ.
8. Ở nơi vắng lặng.
9. Ngồi ở nghĩa địa.
10. Ngồi ở ngoài trời.
11. Ngủ dưới gốc cây.
12. Thường ngồi không nằm.

Người tu khổ hạnh, phải giữ mười hai điều quy cụ nầy. Tại sao phải khổ như thế ? Vì con người có tâm tham. Do đó : ‘’Lòng tham muốn chẳng bao giờ ngừng‘’, tham chẳng biết chán, càng nhiều càng tốt, kết quả vọng tưởng lăn xăn, khắp nơi phan duyên ảnh hưởng sự tu đạo. Nếu tu mười hai thứ khổ hạnh, coi nhẹ thân của mình, thì không làm nô lệ cho nó, chỉ cần duy trì được sinh mạng thì được. Nếu chẳng có tâm tham, thì chẳng có vọng tưởng; nếu chẳng có vọng tưởng, thì sẽ khai ngộ.

Hay ở đời sau
Đọc trì kinh này.
Đó thật Phật tử
Ở thuần đất lành
Sau Phật diệt độ
Hay giải nghĩa kinh.
Các trời người đó
Là mắt thế gian
Ở đời sợ hãi
Nói trong chốc lát.
Tất cả trời người
Đều nên cúng dường.

Người đó khi ở đời vị lai, đọc tụng thọ trì Kinh Pháp Hoa, mới là đệ tử chân chánh của Phật, trụ ở đất lành thuần nhất, tức cũng là đất Phật.

Sau khi Phật diệt độ, thấu hiểu nghĩa lý kinh nầy, đó là con mắt của trời người. Bất cứ là trời người, nếu chẳng đọc tụng thọ trì kinh điển, thì cũng giống như người mù chẳng có mắt. Ở trong đời ác năm trược, trong thời gian chốc lát giải nói Kinh Pháp Hoa. Khi đó, tất cả trời người đều nên cúng dường vị pháp sư.

HT Tuyên Hóa




Có phản hồi đến “29. Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một - Phần 2”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com