I . Giá trị thời gian:

Từ mười phương vọng về, những khúc nhạc trầm tư, những cung bậc vang vang đều đều như nhịp sóng mõ chuông nơi đại hùng bửu điện, chốn bồng cung năm xưa yêu dấu. Tiếng ai niệm Phật đầy vẻ bi tráng diệu linh, nhiệm mầu như thoi đưa, tiếng con tim nhân loại nhịp nhàng cùng hơi thở vũ trụ, lục châu giang sơn thế giới. Tiếng bi ai hoài vọng về vô cực vượt hẳn thế thái nhân tình, nhân sanh tỉnh mộng dưới ánh triêu dương, tỉnh thức giấc nam kha quay về miền cố quận. Đưa chiếc thuyền từ lên đênh giữa sóng vỗ lưng trời, như đất lở xa xăm làm cho nhân sanh lở khóc lở cười, lặn ngụp chơi vơi giữa phong ba vào bến bờ an lạc. Tôi đã học được nhiều trong những năm tháng làm thư sinh nơi chốn quê nhà, nơi vùng đạo đức đầy khí thiêng bên dòng Cửu Long giang được phát huy toàn diện và khả kính, khải nghe âm vang vọng nhớ ngày xưa, tiếng thơ của Hòa Thượng Giảng sư Nhựt Long trích thơ của Đoàn Như Khuê, nhan đề “Bể Thảm” hồi năm 1917 truyền đạt cho Sư Bà Diệu Lầu lúc dạo cảnh bái Phật tại Long Hòa Tự, làng Hưng Long:

Bể khổ mênh mông sóng lụt trời

Khách trần chèo một lá thuyền chơi

Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió

Coi lại cùng trong bể thảm thôi

Hay là:

Bể khổ mênh mông sóng lụt trời

Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi

Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió

Nghĩ lại cùng trong bể khổ thôi

Bốn câu thơ nầy đã từng được Sư Bà Diệu Lầu học thuộc và trùng tuyên lại cho tôi nghe trong những năm 1959 còn độ tuổi thiếu niên tại chùa Long Phước, làng Long Khánh, nơi Đại lão Hòa Thượng ân sư thượng Quảng hạ Đức khai sơn giáo hóa dân làng.

Người dân Cai Lậy dễ thương, trìu mến với những vầng thơ lâng lâng bên sóng nước, sống trên những vùng sông nước như quê tôi có nhiều sự thu hút về công đức tu hành về lời giảng:

“Cõi đời là khổ đế như sự lặn ngụp trôi lăn theo sóng nước vô biên.

Như mây trắng bay bên khung trời xanh khi chiều về xuôi trong vô tận”.

Tuổi trẻ, tôi sớm nhận chân giá trị cuộc đời là nhiều khổ đau và nước mắt, tiếng khóc than của chúng sanh như râm rang trong không ảnh cõi phù ta, tiếng kêu la thảm thiết của chúng sanh như âm cung (địa ngục) đầy tăm tối, những giếng nước mắt triều dâng theo mọi khổ hãi của nhân sanh, những sự nhễ nhạy của bi thương trong cuộc thế, những thế thái nhân tình luôn vỡ vụn như áng mây trôi, những ân tình hòa hợp rồi ly tan, khi thương yêu, khi hận thù theo năm tháng, những ly tan rồi hòa hợp như áng mây ngũ sắc lơ lửng trôi giữa khung trời bao la thăm thẳm.

Ôi những hình ảnh đi theo tuổi thơ tôi, đã sớm nhận chân giá trị của cuộc đời, bây giờ đây biến thành sự thật, càng ngày càng sáng tỏ tuyệt vời hơn. Tôi chợt nhìn giá trị cuộc sống con người bị trôi đi xa như người khách trần chèo một chiếc thuyền nan lững lờ trôi giạt theo bóng thời gian từ quá khứ xuôi về hướng tương lai đầy ảo ảnh. Và rồi con thuyền ngược xuôi, xuôi ngược theo dòng đời mênh mông như tha hóa tự tại, khổ không hay, sướng không biết, xem sự chơi vơi của định mệnh lại là nhà, thấy nương dâu như đất bằng xanh thẳm, một cuộc sống dành cho con người như không định hướng, không có lối thoát, đường đi và nẻo về trong vĩnh cửu. Rốt rồi cùng đi về với mẫu số chung “một nổi khổ chúng sanh triền miên bất tận”.

II . Truyền thống Phật môn:

Bạn ơi, còn một điều nầy nữa, trong thế gian nầy ai là “người tốt”, ai là “người xấu”? ai nhục, ai vinh? Tại sao người ta dùng từ ngữ “tốt xấu”, “nhục vinh” để áp đặt cho nhau, để phân biệt, tranh hơn thua, đưa nhau vào chỗ cấu xé lẫn nhau, chiến tranh chém giết lẫn nhau chỉ vì hai từ “tốt xấu”, “nhục vinh”. Thậm chí bôi mặt đá nhau, sát phạt nhau không thương tiếc. Ôi thôi, Bạn ơi tôi thấy những cái “tốt xấu”, “phải trái”, “nhục vinh” Bạn thỏa mãn trong lâu đài vinh quang danh dự, Bạn chèn ép tôi, lăn nhục tôi làm cho tôi ô uế cuộc đời, tôi bị vu khống lăn nhục trong bùn nhơ nước đục, nhưng hai chúng ta cũng chỉ là những sanh vật đang nổi trôi trong bể khổ thế gian nầy thôi Bạn ạ!

Đạo pháp hưng thịnh và cuộc đời tươi sáng, chúng ta nên nắm bắt cái hưng thịnh và tươi sáng để tận hưởng, không nên đem ô nhục, lấm lem áp đặt cho người khác, riêng mình thì thụ hưởng vinh quang danh dự. Chắc chắn cả hai đều không được “vinh danh” gì cả, mà chỉ gánh lấy những “bất hạnh” trong cuộc đời?

Sư Bà Diệu Lầu nhận chân được giá trị thời gian vĩnh cửu, những được mất, những cái hay dở, cái ảo giác hư danh, nhục vinh mộng huyễn và đã truyền dạy cho chúng tôi tuy không nhiều, nhưng là một ký ức sâu đậm “tiếng pháp âm” trong những năm tôi đã giác ngộ đi tu.

Sư Bà ơi! Cháu phát tâm xuất gia ngày 30 tháng 7 năm Canh Tý (1960) với Đức tôn sư Thiện Phước Nhựt Ý, dòng Lâm tế thứ 41 (biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai) thuộc môn phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng .

Môn phong có truyền thống hành đạo pháp môn niệm Phật 93 năm rồi; môn phong có dạy tu “lễ bái niệm Phật” và kể từ khi xuất gia đầu Phật đến nay là 53 năm, pháp môn “lễ bái niệm Phật” rất phù hợp với hạnh nguyện của cháu. Cho nên dù đang làm Phật sự trong và ngoài tông phong đa đoan, nhưng con vẫn thực hành pháp tu miên mật, mỗi ngày vào lúc 2 giờ 30 sáng con phải thức dậy, mặc pháp phục trang nghiêm, hướng về đảnh lễ Phật 108 lạy, sau đó nghiên cứu kinh, viết sách, rổi mới đến thời công phu cùng với chư Tăng trong tu viện Bà ạ!

“Lễ bái niệm Phật” là pháp tu chính trong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng , khi còn là Sa di, cháu và các bạn đồng tu cả năm sáu trăm người lạy tập thể từ 18 giờ đến 19 giờ đó Bà. Về sau còn có pháp tu “bá nhựt trì danh”, “lạy kinh Pháp Hoa”, “sám hối niệm Phật” được phổ cập trong các tự viện của Tịnh Độ Non Bồng. Mong rằng các pháp tu biệt truyền nầy vượt ra ngoài môn phong đến chư Tăng Ni, Phật tử đại chúng tu tập hiệu quả. Các pháp tu được hướng dẫn trong quyển 100 ngày niệm Phật & 100 bài pháp của tác giả HT Thích Giác Quang, NXB Phương Đông, ấn bản năm 2010.

Vị ân sư thứ nhất vị pháp thiêu thân cúng dường chư Phật cầu nguyện cho chánh pháp trường tồn, Phật giáo Việt Nam bất diệt hồi năm 1963. Vị ân sư thứ hai, người thế phát xuất gia cho cháu và chính Bà là người viết thư gởi cháu cho Thầy dạy dỗ nuôi dưỡng cho nên người. Hai vị ân sư, Bà, cha mẹ cháu hôm nay đã không còn nữa trên thế gian, chắc chắn các vị đã cao đăng bảo địa, vì cháu đã nên người trưởng thượng trong hàng tăng lữ Phật giáo Việt Nam. Hiện thân của cháu đã làm cho “cha mẹ Thầy Tổ” tròn hạnh nguyện “thượng báo tứ ân, hạ tế tam khổ” rồi phải không Bà.

III . Học làm con Phật:

Năm lên 9, học lớp Nhì, dịp bãi trường Ba cho về thăm Bà Nội và ở suốt thời gian ba tháng; tôi còn nhớ ba tháng đó tức là ba tháng tu hành của tôi, tức là Bà Nội cho ăn chay, ăn chay thì ăn chứ chẳng sao, tôi quen mùi muối dưa đậm đà bản sắc Phật giáo lắm rồi, tôi rất biết vâng lời Phật dạy, lúc nào cũng sợ làm những việc có tội, không dám nghĩ ác, làm ác, tôi được giáo huấn rất kỹ trong giáo pháp nhà Phật, dù chưa phải là Thầy Tu nhưng không khác quý Thầy chốn am thiền. Ở xóm tôi, mỗi tối nhà nào cũng tụng kinh, chuông mõ đều đều thâm thâm dịu dịu cùng tiếng kinh, tiếng niệm Phật, tu Tịnh độ, vợ tu, chồng tu, con cháu công phu Di Đà; đem một trẻ thơ kêu cho làm ác cũng chẳng dám làm, huống gì tự các thiếu nhi ấy thực hiện thủ ác. Làng tôi, người dân quê chúng tôi rất bình lặng như sống trong thế giới Tịnh độ Tây phương.

Ngày 22 tháng 5 năm 1957, nhìn thấy một nhà sư du tăng Khất sĩ đi trì bình khất thực, tôi được biết đó là Thầy Thích Chơn Thường ở chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh, Saigon đến thăm Thầy Giảng sư Nhựt Long tại chùa Long Hòa. Thầy Chơn Thường tuy tu theo Bắc Tông, nhưng lại mang pháp phục nhà sư du tăng đi khất thực trì bình trong xóm tôi; Bà Nội và Cô Hai có dịp thỉnh Thầy dừng chân để cúng dường cơm canh, thức ăn chay cho Thầy. Sau đó tôi được biết Thầy đi về hướng chùa Long Hòa để cúng dường và độ ngọ vào lúc 12 giờ trưa. Từ lúc gặp Thầy Chơn Thường đi khất thực tôi có cảm tượng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ảnh hiện đâu đây gần xóm tôi, tôi càng tinh tấn niệm Phật, tụng kinh mỗi tối, không cần ai nhắc nhở tôi cũng theo Bà Nội ngồi bán già tụng niệm với Bà.

Thầy Chơn Thường đạo hạnh cao viễn, thần khí cao xa liêm khiết, tiếng pháp âm của Thầy lãnh lót chốn sơn môn, tôi được một lần đến nghe Thầy giảng tại chùa Long Hòa và còn nhớ câu:

“lành nhỏ không bỏ

dữ nhỏ không làm”

Ấn tượng sợ làm việc có tội, cộng với bản tính hiền hòa chất phát của người dân quê hương tôi cho đến hôm nay vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Giờ đây đã làm Hòa Thượng giáo hóa chúng sanh, làm Phật sự và đã 68 tuổi rồi, tuy không phải Phật nhưng cũng là sứ giả của Ngài, mọi người đang chờ tôi giúp đỡ, chắc chắn tôi không làm việc gì sai trái, không tạo tội chốn thiền lâm, đó là tập quán và còn vì hạnh nguyện muốn làm việc Phật pháp giúp đỡ cho mọi người tu giải thoát mà thôi!

IV . Triêu dương:

Ngày 19 tháng 02 năm Quý Mão (1963) có dịp về ghé thăm người thân tại quê nhà tại ấp Mỹ Thạnh, xã Hòa Định, quận Chợ Gạo, tôi và quý Sư bạn cùng đàm đạo với Sư Bà Diệu Lầu, lúc bấy giờ với những giọng cảm từ lưu loát, Sư Bà trích từ trong kinh Kim Cang - bản dịch song ngữ Đoàn Trung Còn, trang 60, nói:

Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ, diệc như điện

Ưng tác như thị quán.

Thầy đi tu Thầy phải nhận chân giá trị pháp âm của Phật từ ngàn xưa còn vang vọng đến hôm nay. Tôi đọc hoài đọc mãi mà không biết làm sao mình đắc đạo ngay để khỏi phụ lòng Đức Thế Tôn, nếu không cũng làm sao phải có cơ hội được lên đến bờ giác. Đọc thì đọc, nhưng mà Phật là Phật, mà ta là ta, thì hai thế giới chưa là một, mình còn đắm chìm trong bãi bể nương dâu, phù ba sóng dậy. Nói đến đây Sư Bà xúc động nửa cười nửa khóc, nửa cười là vì nói lên được một lời pháp của Phật cho tôi nghe và mọi người nghe; nửa khóc là vì mình biết pháp Phật vi diệu đến thế, mà vẫn chưa thâm nhập thần trí, chưa giải thoát khỏi vòng luẩn quẩn trược uế tử sanh, sanh tử luân hồi!

Ôi tiếng pháp âm của Đức Thế Tôn luôn còn vang vọng suốt mấy nghìn thu, hôm nay và mãi mãi ngàn sau vẫn như thế, như thế và như thế. Tiếng pháp âm vẫn còn vang vọng khắp mười phương, khắp trong hằng hà sa số các hành tinh xung quanh hành tinh địa cầu, làm cho chúng ta cảm nhận Đức Thế Tôn muôn thuở vẫn còn đâu đây và gần nhất với chúng ta, đang chia sẻ những quá trình thị hiện tu chứng mà Ngài đạt được từ trong muôn vạn kiếp bản sanh.

Sư Bà ơi, cháu đã hiểu: các pháp hữu vi, những gì thuộc về hình tướng, âm thanh sắc tướng, những khởi niệm theo từng niệm sanh diệt của thời gian, những gì thấy nghe hay biết luôn trôi đi theo bóng thời gian, thời gian trôi đi nhanh quá, làm cho chúng sanh luôn cảm nhận pháp ấy không thật, như mộng ảo thoạt có đó rồi hoàn không, thoạt thân tín biến thành thù hận. Pháp hữu vi huyển hóa, như nhà ảo thuật “đem cái không làm cho có, đem cái có làm cho trở thành không”, sự chuyển hóa ra đi khỏi tầm mắt, khỏi sự thấy nghe hay biết của chúng sanh, ra đi rồi lại đến, đến rồi lại đi như mộng ảo, như huyển thuật… đó là cái trò đời trắng đen đen trắng, đổi tâm thay dạ, một tấc dạ hai tấc lòng, biết thế mà chúng sanh vẫn luôn lầm lạc trong muôn thuở phải không Bà!

Các pháp hữu vi, như sóng nước, như hình trong gương, như sương mai, như điện chớp… thật mầu nhiệm thay những cái như thị như thị, nhan nhãn trước mắt mà ta không thấy, phải đợi đến Đức Thế Tôn giáng trần, dùng tay chỉ điểm cho ta mới thấy được, nhưng chỉ thấy thôi chứ chưa tin hẳn, vì chúng sanh vẫn còn mê muội, đắm chìm trong cuộc đời, không chấp nhận cái nhìn trung thực, mà chỉ chấp nê một bên, cho là đã đúng, là thật, rồi bước đi vào hố thẳm cuộc đời, nhìn hố thẳm là ánh hào quang trăm năm hạnh phúc, đam mê mãi cho đến khi sự sáng tắt lịm, sự sanh lão bệnh tử xuất hiện mới thôi.

Sư Bà ơi! Những âm thanh lời pháp Phật dũng xuất từ miệng Bà, cháu thấy như ngày nào Bà còn trỗi giọng đã làm cho các chư huynh đệ của cháu, như Sư Từ Pháp, Sư Thiện Thành, Sư Thiện Thạnh đều khâm phục trí tuệ lưu loát của Bà, tâm ý của Bà lúc bấy giờ như vầng hồng ban mai triêu dương cuộc đời! Cháu đang quán sát và thực chứng về tiếng pháp âm ngày xưa của Bà đấy!

V . Tịch dương:

Ngày mùng 8 tháng 8 năm 1964 (Giáp Thìn), tôi được Đức Tôn sư cho phép nhập thất tại Đạo tràng Huệ Tâm, tua 18, Lái Thiêu. Đạo tràng nằm giữa khu vườn cô tịch, như tích sử linh thiêng dưới ánh tịch dương, chỉ một con đường làng đưa vào Đạo tràng, không một bóng người, nhà cửa xen vào khu huê viên xanh mát, bóng cô liêu hiện ra một hình ảnh thanh vắng như giữa đêm trừ tịch không một âm vang giữa chốn môn trung.

Tôi nhập thất dưới sự chứng minh của Đức Tôn sư với sự hộ trì của Sư huynh Huệ Tâm (sau nầy được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tấn phong Hòa Thượng năm 2002) và một số nam Phật tử có lòng thành tín, trong đó có Út Nhẫn là bạn đồng hành tu tập từ những năm 1960 nơi núi Bồng Lai. Chương trình tu học được sắp xếp thật chu toàn, sự ăn uống do Sư huynh Huệ Tâm lo liệu, phần kinh kệ khóa tu do tôi tự bố trí sắp xếp, làm sao không còn khỏang trống và có thời gian nghỉ ngơi.

6 giờ sáng, Sư huynh Huệ Tâm đưa tôi vào thất. Với những ngày đầu tiên thân tâm còn chưa hội nhập, sự bỡ ngỡ hiện ra rõ ràng, muỗi mòng, trùng dế thi nhau trỗi giọng, tiếng ếch nhái cũng lắm kêu sa, làm cho thân tâm thêm nhiều trạo cử. Tôi cố gắng vượt qua phần nghiệp chướng ấy, cho đến ngày hôm sau, trạo cử ra đi, sự sợ sệt tiếp đến rồi ra đi, sự nghi ngờ đến rồi cũng đi. Ngày thứ ba, còn lại sự trống vắng mỏi mòn trông, sự bần thần rã rượi xuất hiện. Tôi cố vượt qua, đêm lạy Phật trăm lạy, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nghiệp chướng bần thần lui tan. Mỏi tay, tê chân cũng là những chướng ngại không nhỏ trong những ngày sắp tới, dường như nó chiếm của tôi rất nhiều khỏang trống thời gian tu tập thiền tụng. Tôi cố gắng vượt qua cho những tê dại khôn lanh không còn nữa, lúc bấy giờ, mới đọc được bài thơ trong Thi Nhân Việt Nam, nhan đề “Bến Giác” của Jean Leiba:

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá

Lệ lòng nông cạn chốn am không

Cửa thiền một đóng duyên trần dứt

Quên hết người quen chốn bụi hồng.

Tôi không quên mình lúc bấy giờ, tuy thân bằng chốn bụi hồng chưa quên hẳn, nhưng do sự khởi tâm thanh tĩnh, tân phát ý, xem mọi việc nhẹ như lông hồng, nên hội nhập vào dòng thác tĩnh tâm, tịnh thân thật nhanh gọn, như pháp thiền duyệt thực của Phật thánh khi xưa. Thế nên dù cho nghiệp thế gian cũng dẫy đầy như ai, nhưng tôi là người vượt qua được những bến ải trong giây phút giữa đôi bờ sanh diệt, diệt sanh. Chốn am không, lòng thêm trống rỗng, như gió lộng chiều thu, như sương mai long lanh nhỏ giọt vào lòng đất mẹ. Cửa thiền thì mở rộng mênh mông, nhưng cửa tâm lúc nào cũng miên mật, miên mật công phu tu tĩnh trong trạng thái như thị, như thị! Trong quá trình tu tập, ngày ngày tôi phải tự nhìn lại tôi, nhìn lại từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý tứ của mình du ngọan nơi nào hay phát nguyện bước chân vào thềm thánh điện, đảnh lễ Đức Thế Tôn. Trong khỏang không giữa ta và Phật tôi nhận thấy có một cái gì không còn khoảng cách chia đôi, dường như trong cái chia đôi ấy tuy hai mà một rồi. Tôi không còn thấy tôi trong khoảnh khắc của thời gian, thời gian không còn chia đôi tôi và Đức Phật và Phật ở trong tôi, tôi ở trong Phật… Ở trạng thái nầy vẫn chưa có gì gọi là Phật cả. Tôi thì cũng không nói Phật, cũng không nói chúng sanh, tuy nhiên chỉ có tôi biết, tự tri tự cảm, là hiện tượng giữa sự hiểu biết và vô thức, có tu có chứng, có tiến bộ có dừng lại, có hoan hỷ có tự mãn trong quá trình tu chứng!

VI . Tỉnh thức:

Tôi đã mãi mê trong khúc hát “tiếng vọng từ tâm thức”, vừa đi vừa ngó xuống trầm ngâm trong giấc điệp thiên thu một đời. Tự cảm, mình đã đắm say trong thế giới tham sân si, say sưa trong những cung bật âm thinh cuộc đời và tuổi thơ thanh mát, yếu đuối trong môi trường hạnh phúc lâu dài, mê si trong ngũ dục, sắc tài danh vọng, thích thú dưới bóng râm trưa hè oi ả, tựa nhìn những ảo ảnh phù hoa trên sa mạc, đối lập với những nóng bức ngày càng lên cao độ.

Từ khát vọng đó, tôi muốn đưa tôi đến và đi bên dòng sông Ni Liên Thuyền, nơi Đức Phật cả một đời an trú và sự miên mật được dựng xây thành lâu đài muôn thuở, cho cây trái, lầu hoa chánh pháp xum xuê che mát cõi Ta Bà.

Rồi Ngài phóng quang soi sáng như một dòng suối từ xuôi chảy reo vang, tiếng hát ngân nga dưới chân vùng Hy Mã:

Rồi một ngày kia hương sắc tàn

Bụi đời chôn lấp chuỗi thời gian

Tới lui mấy độ quan san ấy

Thầm gởi cho đời một tiếng than.

Rồi một ngày kia hương sắc phai

Tìm đâu cho thấy dấu quan hài

Áo vàng rủ bóng thân hư huyển

Tháp mộ chôn vùi xương thịt ai.

(Jean Leiba)

Bóng ai đứng tựa ngoài song cửa, từng dẫn dắt tôi và đưa tôi đến bến lạc bang, những dáng đi lượm thượm, gậy chống lộp cộp chốn Bồng cung, nơi của vĩnh cửu và thân thương triều mến, nơi không có hận thù và chát oán mua hờn, không có những hào hoa phong nhã làm lắm áo người lữ khách chốn phàm trần, nơi không một chút si mê, không bôi mặt đánh nhau từ kiếp nầy sang kiếp khác, nơi không có sự trả vay vay trả những mãnh đời, lang thang nơi bến bờ cát bụi.

Qua khúc hát của Jean Leiba, đã đưa tôi vào thế giới của Ba la mật, thế giới ngàn năm vĩnh biệt tử sanh, sanh tử luân hồi. Tôi đã đi cùng với người từ độ ấy, từ lúc chưa sanh ra, trong muôn vạn kiếp đã biết cái khổ của sanh tử luân hồi, của quả báo trần gian đưa ta vào cõi chết và chính tôi tự mình cứu lấy mình bước ra khỏi những cái mà mọi người ham thích. Tôi đã đi xa rồi thế giới của các Bạn đó Bạn ơi. Sự không ham thích của tôi không phải do Bạn khuyến tấn, không do Bạn đưa tôi ra khỏi áng mây mù. Sự giải thoát và ra khỏi thế gian phải do chính tôi và tự tôi đưa mình ra khỏi những nghiệp lực của thế gian, thế giới mà Bạn đang sống đấy. Cái thế giới có sống có chết đó, cái thế giới có hận thù, có vay trả, có chua, cay, đắng, chát, ngọt, bùi… thế giới có sự mạt sát, mạ lỵ, khen tặng, rủa sả, tốt xấu, phải quấy, không tôn trọng và chỉ biết làm nhục người khác? Tôi đã xa rời thế giới của Bạn từ lâu rồi bạn ơi!

VII . Sự an lạc:

Bạn ơi! Tôi thường nghe những người xung quanh tôi phiền muộn, buồn bực, tức giận khi nghe ai đó nói xấu về mình. Tôi thường thấy có những vụ đâm chém, giết người vì chửi quát nhau. Hôm nay xin chia sẻ lại câu chuyện này để mọi người đọc và cùng suy ngẫm, chọn cho mình cách sống đẹp:

Một lần, Phật đi giáo hóa vùng của Bà La Môn giáo, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá nên ra đón đường Phật chửi mắng thậm tệ, làm nhục Phật. Đức Phật vẫn đi thong thả, họ vẫn đi theo sau mắng chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức giận, một số đông chặn Phật lại hỏi:

- Sa môn Gotama có điếc không?

- Ta không điếc!

- Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi?

- Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng cho họ mà họ không nhận thì quà đấy về tay ai?

- Quà ấy về chúng tôi chứ ai.

- Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.

Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng, nói gió ở đâu đâu cũng lắng tai nghe, ôm ấp trong lòng để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh.

Ngài không chấp không buồn, còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người đừng quan tâm. Như thế mới được an vui.

Trong kinh, Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay mặt người phun. Thế nên có thọ nhận mới dính mắc đau khổ, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau quí vị có nghe ai nói gì về mình, dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui.

Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết hóa giải, không thọ nhận, đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp xem lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lí do bất như ý bên ngoài. Đó là tu chưa tiến bộ.

Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai, thứ ba, thì tìm phăng cho ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó không phải người trí.

Bệnh của chúng sanh là hay thích chửi mắng người khác, chửi cho đến khi nào mình cảm thấy vẫn còn thích thú, xem việc mạ lỵ bôi nhọ người khác là một tập khí thân quen, nói xấu người khác là quyến thuộc của mình, mình luôn bảo vệ cái hay nói xấu người khác, đó là trò đời chúng sanh. Nhưng các bạn quên rằng, trên thế gian nầy làm việc gì cũng có quả báo thật logic, không có nhân nào là nhân không có quả, không có quả nào là quả không nhân. Nhân và quả sẽ có một chừng mực rất khoa học ví như muôn dòng nước luôn xuôi về đại dương bao la vô tận.

VIII . Thăm núi Trà Sư:

Ngày 19 tháng Giêng năm 1965, chúng tôi chư Tăng Đoàn Du Tăng Khất sĩ Non Bồng, gồm mười hai Nhà Sư, trong đó có tôi, Sư Thành, Sư Hồng, Sư Hương… tất cả đều còn là Sa di, đi trên chiếc xe ba bánh Lambro… thăm núi Trà Sư, Tịnh Biên, Châu Đốc diện kiến đảnh lễ Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức, tại Am Bửu Quang Minh, vùng Sân Tiên. Đoàn chúng tôi khởi hành từ Tịnh xá Thiện Chơn (Bà Điểm) vào lúc 5 giờ sáng đến 16 giờ chiều tới núi.

Đêm đó Đức Sư Ông dạy:

Tu hành cần phải có sự kiên tâm trì chí, nhịn nhục là trước tiên, nhịn thì phải chịu nhục, chịu nhục đừng cải chánh cho đến khi thành Phật!

Người xưa nói:

“Phật cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng”.

Mình tu hành lẽ dĩ nhiên phải có ma khảo, có người chửi bới, mạ nhục, vu báng, vu khống, mạ lỵ, bêu xấu danh dự, giá trị mình… nhưng mà “vô ma khảo bất thành đại đạo” đó các con.

Phải nhịn nhục tu mới thành Phật các con à!

Nên có câu:

“Phật cao nhứt trượng, ma nhượng đầu Sư” là như vậy.

Nguời cố tình mạ lỵ vu khống các con, các con đừng trả lời trả vốn chi cả, người xưa thường nói :

“Lặng thinh như Bụt” thế đấy.

Trên thế gian nầy, các chuyện tốt, xấu, nhục, vinh chẳng là gì đâu các con, khi các con còn trên thế gian, sống theo sự vận hành của sanh, già, bệnh, chết!

Đức Sư Ông dạy tiếp:

“Thành Phật tự tại, tà ma tiêu vong”

Các con chưa phải là Phật, tu chưa thành Phật, thì có người khảo, khảo thí gạn lọc cho đến khi các con không còn là các con nữa, các con tiếp tục tu vô ngã vị tha, đừng thù oán người. Sở dĩ họ mạ lỵ, làm nhục các con là vì họ chưa hiểu, chưa cảm thông các con và Phật pháp đó thôi, chứ khi hiểu, cảm thông các con và Phật pháp rồi chắc chắn họ không còn chửi mắng, bêu xấu lăng nhục các con nữa!

Tôi nói ít mà các con nghe và hiểu nhiều, cố gắng tu hành về sau nên đạo, kế thừa tổ tông.

IX . Trở về:

Nói gì thì nói, chứ tôi thì tự thấy mình đã đi xa rồi nơi chơn tánh, một mai dong ruỗi đã quên mất đường về. Nếu không có ân sư giáo hóa, chư Thiên và mọi người đồng hành cân nhắc trợ duyên thì cầm chắc trong tay là tôi đã sa đà nơi chốn trần gian, nơi có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nơi có nhiều cá tính tranh chấp quyền lợi, địa vị tước quyền, phải quấy hơn thua, bêu xấu lẫn nhau, nhất là lăn mạ vu khống, chuyện không nói có, chuyện có nói không, nơi hạ thủ làm cho đối phương phải mất uy tín trong quảng đại quần chúng! Phải chăng đây là những “nghiệp chướng” từ bao đời bủa vây “chơn tánh” từ mấy nghìn thu không lối thoát, là những áng mây đen che chắn “ánh trăng chơn lý” trong đêm dài vô tận, là những mớ bòng bong tài sắc danh thực thụy nhấn chìm “những liên hoa hóa thân” trong bùn nhơ nước đục.

Xảy nghe trong âm vang: “người nói xấu, vu khống ta là người ơn”, vì họ đã cân nhắc ta “đi trong đêm tối nhưng tâm linh phải sáng”. Cái tâm linh sáng trong đêm tối đó sẽ đưa ta đến bến bờ giải thoát khỏi những đợt sóng “tham ái, sân hận, si mê”, đón đưa ta trong vạn kiếp tử sanh.

Một câu chuyện cổ về con sư tử cái thường nhảy từ đồi đất này sang đồi đất khác, và giữa hai đồi đất đó có một đàn trừu lớn đang đi. Con sư tử cái đang mang thai, và đã sinh con khi đang nhảy. Con sư tử con rơi vào đàn trừu, được trừu nuôi nấng, một cách tự nhiên, nó tin bản thân nó cũng là trừu. Điều đó có chút ít kì lạ bởi vì nó to thế, khác thế - nhưng có lẽ nó chỉ là một điều kì dị của tự nhiên thôi. Nó được nuôi lớn bằng những mớ cỏ non.

Nó lớn lên, rồi một hôm một con sư tử già đang đi tìm thức ăn tới gần đàn trừu này - và nó không thể tin được vào mắt mình. Ở giữa đàn trừu, có một con sư tử non trong sự huy hoàng trọn vẹn của nó, và đàn trừu này lại không sợ. Con sư tử già quên mất thức ăn, nó dõi theo đàn trừu... và nó trở nên phân vân hơn, bởi vì con sư tử non cũng chạy cùng đàn trừu. Cuối cùng nó bắt lấy con sư tử non. Con sư tử non kêu khóc van xin con sư tử già: "Bác ơi, xin bác cho con đi với mọi người đi."

Nhưng con sư tử già lôi nó tới một cái hồ gần đó - cái hồ yên tĩnh không gợn sóng, nó giống như tấm gương thuần khiết - và con sư tử già bắt con sư tử non nhìn cái bóng của mình trong hồ, và cũng có cái bóng của con sư tử già. Bỗng nhiên có sự biến đổi. Khoảnh khắc con sư tử non thấy nó là ai, có tiếng gầm lớn - toàn thể thung lũng vang vọng tiếng gầm của con sư tử non. Nó chưa bao giờ gầm trước đây bởi vì nó chưa bao giờ nghĩ rằng nó là con gì khác hơn trừu.

Con sư tử già nói: "Công việc của ta hoàn thành rồi, bây giờ đấy là tùy ở con. Con có muốn quay lại với bầy đàn của mình không?"

Con sư tử non cười phá lên. Nó nói: "Con xin lỗi, con đã hoàn toàn quên mất mình là ai. Và con biết ơn thầy vô cùng, thầy đã giúp con nhớ lại."

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy do hoàn cảnh mà chú sư tử con đã quên đi bản chất mình là ai. Nhưng đây không phải là vấn đề riêng của chú sư tử con bị lưu lạc giữa bầy trừu mà đây là vấn đề chung của tất cả chúng ta. Chúng ta cứ mãi mê chung sống với màn lưới vô minh và vô tư trầm mình trong con sông phiền não mà quên mất mình là ai và mình có những gì. Đó ũng như chú sư tử con hồn nhiên sống giữa bầy trừu. Như vậy vấn đề ở đây là chúng ta hãy trở về với chính mình. Chúng ta cứ sống mà không biết mình là ai thì cũng là một cái xác không hồn đang khắc khoải với thời gian mà thôi. Để thoát khỏi cảnh này chúng ta phải tự đi tìm lại chính mình, tìm về với chân tâm. Như một thiền sư từng viết:

“Nếu đánh mất chân tâm

Con người u mê, điên đảo

Tự mình xây ngục giam cầm

Không biết đâu là lẽ đạo.

Mất tâm, đời liền chao đảo

Thiếu tâm, phiền não trùng vây”

Quá trình tìm về với chính mình là một sự nỗ lực của chính tự thân. Trong đó Thầy bạn cũng là người đưa đường chỉ lối giúp cho chúng ta thức tỉnh biết quay về như thế nào và bằng cách nào để quay về tùy hỷ theo hoàn cảnh, chánh báo và y báo của chính mình.

Trên bước đường tu hành, dựa trên nền tảng của người Thầy chỉ dạy, đôi khi cũng có những người “bạn lành kể cả bạn xấu” cân nhắc mà vận dụng thì chắc chắn ta sẽ thành tựu trên bước đường trở về với ta “ta sẽ là ta” như gả cùng tử trong kinh Pháp Hoa tìm về được nhà xưa. Câu chuyện “sư tử và trừu” sẽ là một bài học rất thật trong cuộc sống hiện tại và chắc chắn đây sẽ là vấn đề cho tất cả những ai muốn tìm lại chính mình trên bước đường về với bảo sở vô nguyên.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

HT Thích Giác Quang



Có phản hồi đến “Pháp Âm - HT Thích Giác Quang”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com