Mục Lục

Vấn: – Pháp môn niệm Phật là pháp môn tu tối thắng, tối phương tiện là kim chỉ nam cho chúng sanh cõi ta bà tìm cầu nương dựa mà tu học. Chín giới chúng sanh rời pháp môn nầy thì không thể tu thành Phật; mười phương chư Phật rời pháp môn nầy thì không thể độ chúng sanh. Chủ yếu các pháp môn tu là phương tiện, làm cho chúng sanh lìa ái (chi mạt vô minh) dứt vô minh (cội gốc) như pháp môn niệm Phật là phương tiện lớn của chư Phật ba đời, giúp cho chúng sanh trong cõi ta bà dễ tiếp nhận pháp tu, phát nguyện tinh chuyên niệm Phật để chuyển hóa ta bà thành Tịnh độ; xin Sư từ bi hoan hỷ khai thị cho chúng con về pháp môn niệm Phật Tịnh độ tông?

Ðáp: - Ngài Ðại sư U Khê dạy: Tất cả pháp môn tu hành đều là tên thuốc để trị bịnh mà Như lai giả lập ra. Do vì bịnh nhiều nên thuốc cũng lắm. Muốn tìm cầu con đường thẳng tắt nhưng lại chính yếu nhất, thì không gì hơn pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Có thể nói đây là bí quyết để mau thành tựu Phật đạo. Bởi vì muốn thoát ly sanh tử, cần phải nhờ vào ba lực, đó là tự lực, tha lực và công đức lực.

Nếu chỉ cốt mong khai mở được tâm địa, xé thủng lưới vô minh, ra khỏi sông ái dục mà làm Phật làm Tổ thì gọi là tự lực. Ðây là những bậc long tượng của tông môn, đại trượng phu trong Phật pháp. Những người đó, là những bậc đại Bồ-tát, Thanh văn, bậc đại Tổ sư trong thời Phật tại thế hay thời kỳ chánh pháp. Trong thời tượng pháp, mạt pháp, căn khí chúng sanh ngày càng hạ liệt, có người tu nhưng không liễu ngộ, hoặc có liễu ngộ nhưng không sâu xa. Quán chiếu tự tâm tựa hồ giải thoát, nhưng khi đối cảnh lại vẫn hoàn mê. Dẫu có không mê thì cũng chẳng khác nào đồ gốm chưa nung. Bồ-tát còn mê khi cách ấm, Sơ quả còn muội lúc thập thai, thì bác địa phàm phu hèn gì không trôi theo dòng nghiệp. Ðó là tự lực nhưng nào có ích chi, xuất trần nhưng làm gì có xuất. Một sai lầm thì muôn ngàn sai lầm, thật là ớn lạnh !

Thế nên, chư Phật, Bồ-tát mới lập bày phương tiện, thi thiết ra pháp môn nương nhờ tha lực. Ðối với pháp môn này, kinh luận diễn thuyết cũng nhiều, bao phen dặn đi dặn lại, hết lời tán thán ngợi khen. Tổ tổ hoằng dương, người người sùng phụng. Chỉ có một môn niệm Phật cầu sanh Tây phương mới là cứu cánh. Mỗi lời mỗi lời đều xiển dương duy tâm Tịnh độ, từng câu từng câu đều diễn thuyết bổn tánh Di-đà. Kẻ ngộ thì liễu ngộ tâm chúng sanh, tâm Phật hoàn toàn bình đẳng; tâm độ Phật đạo nào có khác đâu. Người tu thì đạt được diệu quán và diệu cảnh khế nhau, tự lực và tha lực cùng có. Huống gì là công đức tự lực vốn có. Tánh cụ từ vô thỉ nhân đây mà rỡ ràng, công đức từ muôn đời nhờ đây mà đốn phát. Cho nên mãn báo ta-bà thì Tịnh độ hiện tiền, hóa sanh trong hoa sen mà không mê trong sanh ấm. Một nhập thì vĩnh viễn nhập, chẳng bao giờ còn thối chuyển. Vì vậy mà những người vãng sanh đều là a-bệ-bạt-trí đông không kể xiết. So với sự nhập đạo ở ta-bà, thì trong cõi này cảnh trần thô thô trược, ác đảo hiểm nạn ở đâu cũng có, nên cố nhiên không nhứ cõi Cực lạc. Thế nhưng, nói không khó, thực hành mới khó. Ðây chính là chỗ người xưa chỉ dạy, người nay nên theo. Dương Thứ Công nói rằng: “Ái không nặng thì không sanh ta bà, niệm không nhất thì không sanh Cực lạc”.

Phàm niệm Phật chính là làm cho cái tâm của mình chuyên nhất. Cần phải khẩn thiết trì danh, chuyên tâm bất loạn. Còn như có chí nguyện mà không thường niệm, niệm nhưng không chuyên nhất, thì chẳng khác nào bị tình ái dẫn đi. Hễ làm cho tâm ái nhẹ đi tức là loại trừ được vọng tưởng, chặt đứt được tình căn, thoát ra khỏi lưới ái. Còn như niệm không nhưng không thể quên, quên nhưng không quên hết, thì chẳng khác nào tâm không được chuyên nhất. ta-bà còn một niệm ái nặng, thì khi lâm chung bị niệm ái này dẫn dắt, huống gì là nhiều tâm ái ư ? Cực lạc còn một niệm không chuyên nhất, thì khi lâm chung bị niệm này lưa chuyển, huống gì còn nhiều niệm ư ?

Ái có nhẹ, có nặng, có mỏng, có dày, có chánh báo, có y báo. Ðơn cử trước mắt như: Cha mẹ,vợ con, anh em bè bạn, công danh phú quý, văn chương thi phú, đạo thuật nghề nghiệp, ăn uống, áo quần, nhà cửa vường ruộng, suối rừng hoa cỏ, của cải bạc vàng, nhiều không kể xiết. Hễ còn nhớ nghĩ một vật tức là còn tâm ái tức niệm không chuyên nhất. Hễ còn một niệm không chuyên nhất thì không được vãng sanh.Ôi ! Hai câu “ Ái không nặng thì không sanh ta-bà, niệm không nhất thì không sanh Cực lạc” thật là kim vàng chữa bịnh mờ mắt, là Thánh dược trị bịnh nan y. Nhưng người có chí nguyện cầu sanh Cực lạc, nên viết trên vách, khắc trong xương, ngày ngày cung kính đọc tụng, niệm niệm cần phải khắc ghi. Ái của ta-bà ngày càng nhẹ, niệm của Cực lạc ngày một chuyên, thì đó lại đã nhẹ lại càng nhẹ hơn để đạt đến vô niệm; đã chuyên nhât lại càng chuyên nhất để đạt dân đến chỗ cùng tột. Dù chưa ra khỏi uế độ nhưng không phải là khách ở mãi trong ta-bà, tuy chưa sanh trong bảo sở nhưng đã là tân khách ở Cực lạc. Lâm chung chánh niệm hiện tiền thì chắc chắn vãng sanh Cực lạc.

Có người hỏi rằng : phải chăng là làm cho ái được nhẹ ?

* Làm cho ái được nhẹ đâu bằng làm cho niệm chuyên nhất.

* Vậy thì làm cho niệm chuyên nhất là đúng ư ?

* Làm cho niệm chuyên nhất đâu bằng làm cho ái được nhẹ.

Có người mỉa mai rằng : Sư nói kiểu chuột có hai đầu, người học không biết phải theo đầu nào mới đúng đây.

Sư đáp : Ðó không phải là hai đầu, mà muốn nói đến nhất niệm. Bởi vì, sở dĩ niệm không chuyên nhất là do tán tâm chạy theo duyên mà ra. Tán tâm chạy theo duyên là do loạn tưởng chạy theo cảnh mà có. Ta-bà có một cảnh thì chúng sanh có một tâm, chúng sanh có một tâm thì ta-bà có một cảnh. Muôn duyên náo động bên trong nên rong ruổi tìm cầu ở bên ngoài. Tâm và cảnh theo nhau, thì ái giống như trần sa. Cho nên muốn làm nhẹ tâm ái đó thì gì bằng đoạn cái tâm duyên theo cảnh đó. Muôn cảnh đều định, vạn duyên đều tịnh thì nhất niệm tự thành. Nhất niệm mà thành thì ái duyên đều đứt. Cho nên nói : “Muốn làm chuyên nhất cái niệm của mình thì không gì hơn làm nhẹ cái tâm ái của mình. Muốn làm nhẹ tâm ái của mình thì không gì hơn làm chuyên nhất cái niệm. Cái thế của ái và niệm không cùng tồn tại, giống như tướng sáng và tối đối nghịch nhau”.

Có người hỏi : Bít lấp muôn cảnh có đúng chăng ?

Ta nói bít lấp muôn cảnh là không phải ngăn trừ vạn hữu, cũng không phải là nhắm mắt không nhìn, mà chính là gặp cảnh thì phải liễu tri rằng nó rỗng không, gặp gốc thì phải thấu triệt được ngọn.

Vạn pháp vốn chẳng tự có, sở dĩ có là do tình chấp. Cho nên tình có thì vật có, tình không thì vật không. Một khi vạn pháp rỗng không thì bản tánh hiện tiền. Bản tánh hiện tiền thì tình niệm liền dứt. Nó vốn tự nhiên như vậy chứ không hề miễn cưỡng. Kinh Lăng nghiêm gọi đó là cái thấy và cảnh bị thất đều là tướng vọng tưởng, như hoa đốm giữa hư không, vốn không thật có. Cái thấy và cảnh bị thấy này nguyên là thể giác ngộ nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt. Như vậy thì tại sao trong đó lại có phải có quấy ? Do đó, muốn bít lấp cảnh này thì không gì hơn liễu đạt được vật vốn rỗng không thì tình chấp tự dứt. Tình chấp mà dứt thì ái chấp không sanh, mà đó chỉ là do tâm hiện, và niệm chuyên nhất được thành tựu.

Trong Kinh Viên Giác chép : “Biết huyễn liền lìa, chẳng bày phương tiện, lìa huyễn tức giác, vốn chẳng thứ lớp. Cái này mất đi, cái kia tồn tại, không thể suy lường, hiệu nghiệm mau chóng, giống như đánh trống”.Vì vậy người học cần nên dốc tâm nghiên cứu.

Lại hỏi: Làm nhẹ tâm Ái và làm cho niệm chuyên nhất giống nhau hay khác nhau ?

* Có thể làm nhẹ tâm ái cõi ta-bà nhưng chưa chắc đã có thể làm chuyên nhất niệm ở Cực lạc. Có thể làm chuyên nhất niệm ở Cực lạc tất có thể làm nhẹ tâm ái ở ta-bà. Ðây là đứng giữa có chí nguyện và không chí nguyện mà nói nhu vậy. Chứ thật ra tâm ái nếu không phải nhất niệm thì không thể quên. Niệm nếu chẳng phải quên ái thì không chuyên nhất. Vì vậy phương pháp hành trì hỗ tương cho nhau khong hề gián đoạn.

Lại hỏi : Như làm nhẹ tâm ái thì được rồi, còn làm cho niệm chuyên nhất thì sao ?

* Phương pháp làm cho niệm chuyên nhất có ba, đó là Tín, Hạnh và Nguyện. Không nghi ngờ gọi là Tín. Nếu còn một nghi ngờ thì tâm không thể nào chuyên nhất được. Do đó khi cầu sanh Tịnh độ, thì tâm thuần tín đứng đầu. Thế nên hành giả cần phải tụng khắp Kinh điển Ðại thừa, học rộng giáo môn chư Tổ. Hễ gặp những kinh sách luận về Tịnh độ, đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Liễu đạt được Cực lạc nguyên là Tịnh độ duy tâm của chính mình chứ không phải ở cõi khác. Thấu triệt được Di-đà nguyên là chân thân Phật của chính bản tánh chúng ta chứ không phải Ðức Phật nào khác. Tóm lại có hai ý, một là liễu ngộ được diệu hữu châu biến cùng khắp để làm cội gốc cho việc ưa thích cõi Tịnh; hai là liễu ngộ được chơn không lìa xa tất cả để làm nền tảng cho việc xả bỏ cõi Uế.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.



Có phản hồi đến “Ngày 56 – Pháp Ngữ Tịnh Độ”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com