Nhớ năm xưa, vừa lên “năm”, Cha hướng dẫn về quê Nội, Ba Dừa, Long Trung, Cay Lậy, đến làng Thuộc Nhiêu, một nơi thôn dã ruộng vườn xanh mát thanh vắng, vào Chùa Long Phước tìm Thầy quy y Tam Bảo. Thầy Bổn sư không ai xa lạ, chính là Hòa Thượng thượng Quảng hạ Đức, ngài đương kim Viện Chủ Trụ Trì ngôi chùa nầy. Vào chùa đảnh lễ Phật, nhìn thấy Đức Phật sao mà nghiêm trang tôn kính quá, thân thương quá ! Với một ánh mắt từ bi chiếu dịu, hiền từ của Ngài đã làm cho tôi suy nghĩ biết bao, bất giác tôi phải hơi run lên vì xúc động mà cũng hơi sờ sợ, vì nơi đây quá tôn nghiêm, vắng lặng, vắng lặng không nghe gì cả ở xung quanh, vắng lặng đến nổi chỉ còn nghe được những tiếng chó sủa, gày gáy thật xa xa, xa tít bên kia đồng nội….Thầy thật hiền từ, ít nói, hơi cười một chút, kêu Bà Nội tức Sư Cô Diệu Phòng, Trưởng Tử của Hòa Thượng rót nước mời khách uống, khách là Cha và tôi, tức là con và cháu, quen quá, nên không có gì phải ngượng ngùng. Một nữa giờ sau, Thầy bảo lên chính điện lễ Phật, lễ Tổ, cầu xin Phật ban phước lành, độ hộ không bệnh hoạn, thông minh sáng suốt…

Vì tên khai sanh của Cha tôi là Đàm Hữu Lương, tôi là Đàm Hữu Phước nên Thầy đã ban cho Cha tôi là Quảng Thiện, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ, tôi là Nhuận Đức, theo một dòng kệ mà Thầy buộc phải học thuộc lòng, cho đến giờ nầy 63 tuổi rồi mà không quên được :

“Đạo Bổn Nguơn Thành Phật Tổ Tiên

Minh Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên

Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ

Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền”.

Tuy mới “năm” tuổi, nhưng tôi nhớ và biết rất rõ, mình vốn là Phật Tử nhiều năm rồi, đã từng là đệ tử của một vị Thầy Yết-ma Trụ Trì ngôi Chùa cùng làng Hòa Định, cùng ấp Mỹ Thạnh, nhưng giờ đây là đệ tử của Hòa Thượng thượng Quảng hạ Đức, bài kệ trên gọi là “lòng phái”, tức là tâm nguyện quy y đã được thành tựu, trở thành Phật Tử chính thức của nhà Phật. Người Phật Tử khi đã quy y phải đeo lòng phái trước ngực, bằng cách mượn may một túi nhỏ, rồi bỏ “lòng phái” vào, túi có luồng sợi dây nhợ dài cho thật dễ gút, rồi gút lại cho thật kỷ, sợ thất lạc, đâu đó xem cho thật đẹp rồi đeo trước ngực để nhớ Phật, niệm Phật, được Phật gia hộ cho sáng suốt và được tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ…cũng như khi có ai đến với mình mà hung ác quá, thì niệm Phật cho họ bớt dữ, thân thiện trở lại ! Nói that ! hồi đó tôi rất ngượng ngùng mắc cở dữ lắm, nhưng sau nầy khi làm việc cho Giáo hội, đi thuyết giảng, đứng lớp, đứng trước quần chúng cảm thấy ngày xưa mình cũng lắm hay hay :”việc đeo lòng phái trước ngực, không quê mùa đâu ! các Hòa Thượng Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Hoa, Singapore…đều mang giấy tờ trước ngực đấy ! nhưng đẹp lắm các bạn ạ ! Hồi tưởng lại thì người Phật giáo dù lớn hay nhỏ, dù ở trong nước hay ngòai nước đều không khác nhau mấy ?

Được sống với Ba Má như vậy thật là sung sướng quá, nhưng rồi một thảm nạn lại đến với gia đình tôi, khi mẹ tôi sanh người em thứ chín Đàm Thanh Oanh, em vừa được một tháng tuổi thì Má tôi phải trải qua một tháng bệnh nặng (bệnh thương hàn) đã qua đời vào lúc 20 giờ, ngày 28 tháng 10 năm Quý Tỵ (24.12.1953), em được giao cho người Cô, nhờ chị của Cha nuôi dưỡng, nhớ lại :

Năm xưa tôi còn bé

Mẹ tôi đã qua đời

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Là bớt khổ đi rồi…

Từ đó, chiến tranh Việt Pháp vẫn còn liên tục đâu đây, những trận đánh xa xa, ở Xã Môn, thuộc một ấp nhỏ trong làng tôi, rồi đến làng Hòa Bình, Bình Ninh dân tình thật đói khổ, chỉ còn nhà trống vườn không, thiếu ăn, thiếu mặt, chết chóc thường ngày, người sống, còn trẻ thì bị lính Tây bắt đi tải đạn, chẳng hạn như người dượng thứ năm của tôi là nhà thương mãi, nhưng ngày nào các ông ấy cũng bắt phải đi tải đạn cho họ đi “ruồng”, đi “ba trui”, đi “bố”, đi “bố ráp”; người dân xứ tôi lúc bấy giờ dùng rất nhiều từ ngữ như thế để nói lên cái khổ , cái sợ sệt trăm bề khi lính Tây đi đến nhà dân…Nhưng chúng tôi, gồm Chị Ba Đàm Thanh Hà (tuổi Dần 1938), Chị Tư Đàm Thanh Thủy (tuổi Thìn, 1940), Bé Tám Đàm Thanh yến (tuổi Sửu,1949) cũng được Ba lo cho ăn học. Hai Chị, tuy mới chỉ học đến chương trình Sơ Học của Trường Tây, nhưng vì là Trường Tây, nên nói tiếng Pháp rất giỏi như Tây, mà cũng giống Tây.

Đến năm 1954, còn trong chiến tranh như thế, nhưng Chị Ba đi lấy chồng theo thuyền thống đạo đức “đạo làm người của nho gia”; Chi Tư thì nghỉ học ở Trường Phổ thông, đi học may ở tiệm may Mỷ Anh, Chợ Gạo, lúc bấy giờ Quận đường còn đóng ở tại Chợ Gạo (cũ tức xã Bình Phan) sau về mở tiệm may, phục vụ cho bà con lối xóm ở tại nhà, thuộc xã Hòa Định (cũng gần kề bên Chợ Gạo). Ba tôi thì vừa mua bán, mở một cửa hiệu tên “Tiệm Buôn Phước Thành tạp hóa Hòa Định” vừa làm y tế, thực hiện nghề thầy thuốc tại nhà, một bên nhà thì trị bệnh cho bà con lối xóm, một bên là tiệm buôn, nhà hơi khấm khá thôi, bấy giờ theo ở quê gọi là “nhà kê” tức là cũng có thứ hạng, trên trước, chớ không giàu lắm…!

Trong những năm còn học ở Trường Tiểu Học Chợ Gạo, được Ba cho làm con nuôi của Thầy giáo Ba, tức Thầy Ba Đài, nên đi học về không ở nhà, mà tôi phải qua nhà của Thầy Giáo, vợ của Thầy Giáo rất cưng thương, nhưng rồi tôi cũng không chịu sự thương yêu ưu tiên đó, vì Ba ở nhà là trên hết !

Xin nói về Ba, học giỏi, tốt nghiệp bằng “Thành Chung”, làm việc cho Tây ở Mỷ Tho, chức Hạ sĩ Hiến Binh “Cò mủ đỏ”, những mỗi khi đi “bố ráp”, súng “Con” của Ba không có nạp đạn, vì sợ lỡ bắn trúng chết người khác mang tội “mắc quả báo”, có tội với Phật Trời, khi bắt được và biết được ai là Việt Minh, Ba khéo léo tìm cách thả, hoặc bắt những người thân của Việt Minh phải bằng mọi giá tìm cách trước sau cũng thả, vì lý do Ba còn có người em trai con của Bà Nội Nhỏ ở Cầu Lớn, xã Long Trung, tên Đàm Hữu Nhiên, theo kháng chiến chống Pháp, làm Việt Minh, sau ngày đình chiến được tập kết ra Bắc, Chính phủ Việt Nam cho đi du học bên Liên Xô, làm Kỷ Sư Nông Nghiệp, Giám Đốc Trường Nông Lâm Nghiệm Tam Điệp, Nam Định, sau ngày hòa bình 30.04.1975 trở về Nam, làm việc tại Long Định, Cai Lậy, sau lên làm Tòa An ở Tỉnh Tiềng Giang, hiện nay thì hưu trí ở Tiền Giang quê nhà .

Năm 1959, Ba mang trọng bệnh và qua đời vào lúc 16 giờ, ngày 18 tháng chạp, năm Kỷ Hợi (16.01.1960) tại quê nhà, nơi mà Ba được sinh ra trong những ngày tươi đẹp nhất của gia đình, của quê hương xứ sở. Tôi lại được cho làm con nuôi của thầy Hiệu Trưởng Trường Trung Học Bán Công Chợ Gạo Trương Thành Cảnh, người ở tại xã Điều Hòa, Mỷ Tho; Thầy là Giáo Sư giỏi thật giỏi, nhưng cũng là người tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp, không đi tập kết… Rồi Pháp đi, Mỹ đến, cũng năm đó Thầy Cảnh bị lính của Ngô Đình Diệm bắt đi quân dịch, cho đi học quân sự ở Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau Thầy trốn vào chiến khu làm kháng chiến chống Mỹ, Trung Ương Cục “R” làm chức vụ Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục của Chính Phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trong chiến khu.

Thầy Liên Phương, Thầy Phước Huệ, Thầy Phước Điện, Thầy Nhất Phương, Sư Giác Nguyên…hay quý sư cụ Thiện Thông, Huệ Trí, Huệ Tâm, Giác Hải, hay quý Sư huynh Huệ Hải, Thiện Chơn, Giác Châu, Thiện Thành, Giác Khánh…vâng ! Là những người bạn lành đã cho tôi một trí tuệ tuyệt vời tại Phật Học Đường Tây Phương Bồng Đão, Tổ Đình Linh Sơn, núi Dinh năm xưa.

Tôi vốn xuất gia năm 1960, làm chú tiểu trên núi Bồng Lai, thật là như tiên đồng ngọc nữ không khác “nhà trời ngày xưa và trên mây xanh kia” chút nào. Lúc bấy giờ tôi cũng như các bạn rất vô tư và chỉ có tu rồi tu và học rồi học Phật Pháp, tự học tập, học bạn, thứ đến vào trường lớp mới học với Thầy. Mãi đến mùa hạ năm 1962, sau khi thọ giới Sa Di ở Trường Sanh Phật Tự, Mỷ Tho, trở thành là một Sa Di tu theo pháp môn Tịnh Độ, giữ gìn hạnh lành Khất Sĩ tôi cãm thấy nhè nhẹ trong người, cái lạ lùng ấy đã thay đổi tâm hồn tôi hướng đến việc “thượng báo tứ ân, hạ tế tam khổ, kế thế khai lai, báo Phật ân đức” và lập thân hành đạo vang danh ư hậu thế, dĩ hiển kỳ phụ mẫu hiếu chi trung giả.

Pháp môn niệm Phật không làm sao tôi quên được khi lên được “sáu” tuổi đời, một tuổi còn hôi sửa lại được Cha Mẹ giáo hóa cho con biết niệm như thế nào cho đúng, niệm thế nào được thanh tịnh, niệm thế nào là chánh niệm, đâu là tà niệm, từ tư thế ngồi, đứng, Cha tôi đã hướng đạo rạch ròi không sai sót quy cũ như chốn thiền lâm. Không biết Ong học hồi nào, mà sao Ong không khác người Thầy ở trong Chùa giáo hóa Tăng Ni Phật Tử, rất giống như Thầy Giám Thiền không hơn không kém ? Khi nào tôi biếng nhác tụng kinh, niệm Phật thì Ong cho quỳ hương như chú Tiểu, Ong Đạo; đứng ngó vào vách như Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma tu “cửu niên diện bích”. Tôi khó chịu lắm, vì mình chưa phải là thầy tu, nhưng cuối cùng rồi cũng phải chấp nhận, chấp nhận để khỏi bị phạt vạ và được thưởng bằng cách “cho đi ngủ sớm”…

Tháng chạp năm ấy là những tháng ngày đau thương, Cha tôi đã bệnh nặng và qua đời một cách im ắng hơn bao giờ, hơn mọi người. Nhưng trong cái êm lặng đó, lồng lộng sự tủi thân phận của đứa con trai duy nhất trong gia đình. Năm ấy là cuối năm Kỷ Hội (1969), Cha chỉ sống trên thế gian nầy được 46 năm thôi, rồi Cha ra đi không có gì là luyến tiếc… bởi đạo lực của Cha cũng rất cao độ, không tầm thường như thế gian. Sự ra đi về với Tổ Phật của Cha, cũng chính là động lực thúc đẩy “con” trên bước đường vào cửa đạo tu hành và thật xứng đáng tiếp lửa con đường tâm linh của Cha cho đến khi làm Hòa Thượng lãnh đạo Tăng Ni, Phật Tử.

Cùng năm đó, Bổn Sư đã cho tôi một bức ảnh Tổ Sư Minh Đăng Quang, Ngài bảo là :”ngày sau hộ trì hạnh tu Khất sĩ, hộ giới, hoằng giới và giữ gìn giới luật Phật thật nghiêm túc.

Lời phú chúc cho tôi từ ngày ấy đến hôm nay thật hiệu quả !

Ngày mùng 01/02 âl năm Kỷ Sửu

Sư Giác Quang



Có phản hồi đến “Nhớ Người Xưa”

Câu hỏi ngẫu nhiên:    =  (Nhập số)  

Tags

Những bài viết nên xem:

 
 
 

Trang nhà không giữ bản quyền. Mọi hình thức sao chép đều được hoan nghênh.

Thư từ, bài vở đóng góp xin gửi về email:linhsonphatgiaocom@gmail.com